Tại Việt Nam, nguồn nguyên liệu mía đang rơi vào tình trạng báo động. Nhiều năm qua, các nhà máy đường trong nước chịu các tác động kép dịch bệnh COVID-19, sức ép từ đường lậu, vùng nguyên liệu mía cả nước đang có dấu hiệu suy giảm khi cây mía cạnh tranh với cây trồng khác.
Diện tích trồng mía đã liên tục giảm mạnh trong những năm qua, theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2021 diện tích trồng mía cả nước chỉ còn 165,9 nghìn ha, sản lượng chỉ còn 10,7 triệu tấn. so sánh 2021/2002 diện tích trồng mía giảm 48,2% và sản lượng mía giảm 37,3%. Các nhà máy cũng thu hẹp sản xuất, nhiều nhà máy đã sát nhập, giải thể từ 39 nhà máy dường năm 2011/2012 đã giảm chỉ còn 24 nhà máy 2021/2022. Số hộ trồng mía cũng giảm một nữa chỉ còn 126 nghìn hộ mùa vụ 2019/2020. Tỷ lệ đóng góp của ngành mía đường trong chỉ còn khoảng 1,5 % tổng giá trị sản xuất của ngành nông lâm thủy sản.
Sự suy giảm của diện tích trồng mía cùng với việc thu hẹp hoạt động sản xuất tại các nhà máy đã ảnh hưởng đến sản lượng đường mía trong nước, gây ra tình trạng thiếu hụt cung ứng, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến thực phẩm và đồ uống. Mặc dù chính sách nhập khẩu đường mía cũng được điều chỉnh linh hoạt, song vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Do đó, tình trạng nhập lậu đường mía vẫn còn phổ biến.
Nguồn cung đường trong nước
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công bố số liệu cho thấy diện tích trồng mía trong mùa vụ 2021-2022 là 146.938 hecta, giảm 3,9% so với mùa vụ 2020-2021 (152.891 ha). Trong khi đó, năng suất trung bình của mía đạt 64,6 tấn/ha, tăng 2,5% so với năm trước (63,0 tấn/ha). Tổng sản lượng mía trong mùa vụ 2021-2022 là 9.496.358 tấn, giảm 1,4% so với mùa vụ 2020-2021 (9.635.607 tấn).
Nguyên nhân chính của sự suy giảm này là do xu hướng chuyển đổi loại cây trồng trong những năm gần đây. Người dân đã chuyển sang trồng các loại cây khác như ngô, sắn, keo lai, và lúa vì chúng mang lại hiệu suất kinh tế cao hơn. Bên cạnh đó, nhiều nhà máy mía đường tại các vùng đã thu hẹp hoạt động sản xuất hoặc thậm chí giải thể, khiến việc tiêu thụ mía không còn bền vững. Điều này buộc người dân phải tìm đến các loại cây trồng khác để thay thế.
Theo số liệu của Hiệp hội mía đường Việt Nam (VASS), ước tính cả nước niên vụ 2022-2023 (tính từ tháng 12/2022 đến tháng 05/2023), tổng sản lượng mía đưa vào ép đạt 9.372,3 nghìn tấn, sản lượng đường sản xuất năm 2023 dự kiến đạt 915,8 nghìn tấn.
Nguồn cung đường trong nước còn đến từ nhập khẩu, Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2022 lượng đường nhập khẩu chính ngạch 1,23 triệu tấn, giá trị đạt 1,08 tỷ USD, giảm 5,4% về sản lượng và tăng 2,5% về giá trị so với năm 2021. Theo báo cáo của VASS, ngoài lượng đường nhập chính ngạch trong và ngoài hạn ngạch, còn một lớn đường lớn nhập lậu từ Campuchia và Lào trong năm 2022 là 816,53 nghìn tấn, tăng 37,64% so với năm 2021.
Nhu cầu đường công nghiệp tại các nhà máy
Nhằm hiểu rõ hơn về nhu cầu đường công nghiệp, các số liệu trong bài lấy từ cuộc khảo sát 40 doanh nghiệp tiêu thụ đường quan trọng. Các doanh nghiệp này đều đứng trong hàng ngũ các doanh nghiệp hàng đầu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, đồ uống và chế biến sữa-kem. Những doanh nghiệp này có quy mô lớn, trong đó số lượng doanh nghiệp có doanh thu từ 500 tỷ trở lên chiếm tỷ lệ 86,5%, còn số lượng doanh nghiệp có doanh thu vượt qua mốc 1000 tỷ đạt 51,4%.
Các doanh nghiệp này tiêu thụ lượng đường rất lớn. Số liệu khảo sát cho thấy 40 doanh nghiệp tiêu thụ 323,54 nghìn tấn, trong đó 75,6% (tương đương 244,71 nghìn tấn) là đường RE, 23,9% là đường RS và các loại đường khác chỉ chiếm 0,5%. Tổng số đường sử dụng của các DN này chiếm khoảng 21% đường công nghiệp.
Trong những năm qua, nhu cầu đường của các doanh nghiệp này ngày càng tăng lên mặc dù mức cung trong nước lại giảm xuống. Số liêu khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy, năm 2023 nhu cầu đường các doanh nghiệp này sẽ tăng lên khoảng 60 nhìn tấn so với năm 2022 và đạt khoảng 382,66 nghìn tấn, trong đó đường RE chiếm 77,5% (tương đương 296,68 nghìn tấn). Nếu phân theo nhóm ngành, đối với đường RE thì các doanh nghiệp nhóm ngành nước giải khát tiêu thụ đường lớn nhất chiếm 70% (171,2 nghìn tấn), đối với đường RS nhóm ngành thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 65% (59,2 nghìn tấn).
Nguồn cung cấp đường của các doanh nghiệp được khảo sát chủ yếu đến từ các nhà máy đường trong nước, đường nhập khẩu và của các công ty thứ 3 trong nước cung cấp. Đối với đường RE, 76,5% số doanh nghiệp được khảo sát mua từ các nhà máy trong nước chỉ có 2,03% tự nhập khẩu đường, số còn lại do bên thứ 3 cung cấp. Đối với đường RS, 34,75% các DN cho biết biết là mua từ các nhà máy đường trường nước, số còn lại từ nguồn nhập khẩu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường ngành chế biến, giải khát. Các doanh nghiệp cho biết, nhu cầu tiêu dùng đường công nghiệp của các doanh nghiệp được sự báo sẽ tăng lên trong những năm tới. Số liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy, trong 5 năm tới, 98% các doanh nghiệp đều dự kiến sẽ tăng nhu cầu tiêu dùng, khối lượng các doanh nghiệp cần thêm khoảng 128,14 nghìn tấn trong 5 năm tới, tức tăng thêm 40% so với nhu cầu tiêu dùng của năm 2022 và tăng thêm 33,4% so với năm 2023. Nguyên nhân tăng nhu cầu do 60% doanh nghiệp được hỏi dự kiến mở rộng quy mô, 20% phát triển thêm sản phẩm mới, 10% sẽ xây dựng thêm nhà máy 10%.
Theo số liệu khảo sát các nhà máy chế biến thực phẩm, đến năm 2028 dự kiến 40 doanh nghiệp này sẽ có nhu cầu tiêu thụ 510,8 nghìn tấn (tăng trên 50 % so với năm điều tra 2022), trong đó đường RE chiếm 81,1% (414,26 nghìn tấn), đường RS chiếm 18,6% (96,54 nghìn tấn). Đánh giá của các doanh nghiệp về khả năng cung cấp đường trong nước, có 65% doanh nghiệp khảo sát cho biết đường sản xuất trong nước không đủ cho nhu cầu sử dụng 40% đánh giá lượng đường nhập khẩu không đủ đáp ứng nhu cầu của họ. Các doanh nghiệp cũng cho biết gặp một số khó khăn khi mua đường để chế biến thực phẩm trong đó khó khăn chính là giá đường biến động, phải dựa vào nguồn cung nhập khẩu, chất lượng đường chưa ổn định. Trước thực trạng nhu cầu tiêu dùng đường ngày càng tăng, nguy cơ thiếu nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp được khảo sát cũng đưa ra rất nhiều các đề xuất. Trong đó, 70% cho rằng cần phải ổn định vùng trồng mía trong nước để tăng sản lượng, 30% cho rằng cần phải gỡ bỏ bảo hộ ngành đường để tăng năng lực cạnh tranh, 65% cho rằng cần phải tăng hạn ngạch nhập khẩu và xem xét lại thuế nhập khẩu, 30% cho rằng cần phải đánh tăng nhập khẩu chính ngạch với thuế ưu đãi để giảm nhập lậu từ đó ổn định giá đường trong nước.
Nhu cầu đường công nghiệp năm 2023
Theo báo cáo của Hiệp hội mía đường Tháng 8/2023, vụ mía 2022-2023 cả nước sản lượng lũy kế từ đầu vụ đã ép được 9,6 triệu tấn mía và sản xuất được 935 tấn đường các loại. So sánh với vụ ép mía 2021-2022 sản lượng mía ép đạt 128% và sản lượng đường đạt 125%. Tồn kho cuối kỳ năm 2022 là khoảng 395 ngàn tấn. Lượng đường nhập khẩu chính ngạch đến Tháng 7/2023 là 452 ngàn tấn. Như vậy lượng cung đường trong nước nếu tính cả số nhập khẩu đến Tháng 7/2023 là 1,76 triệu tấn.
Trong khi đó, lượng tiêu dùng đường trong nước ước tính khoảng 2,24 triệu tấn. Trong đó, dựa theo Điều tra mức sống dân cư, nhóm nghiên cứu ướ lượng tiêu dùng cho hộ gia đình là khoảng 429 ngàn tấn. Tiêu dùng cho công nghiệp chế biến thực phẩm đồ uống khoảng 1,8 triệu tấn. Ngoài ra, lượng đường xuất khẩu của cả năm theo ước tính của Hiệp hội mía đường là khoảng 147 ngàn tấn. Như vậy tổng cầu đường mía của cả nước năm 2023 (tính cả xuất khẩu) ước đạt khoảng 2,39 triệu tấn.
Như vậy, để bù đắp lượng đường thiếu hụt từ đây đến cuối năm thì Việt Nam cần nhập khẩu khoảng 625 ngàn tấn.
Giải pháp phát triển bền vững đối với ngành mía đường công nghiệp Việt Nam
Thực trạng nguồn cung – cầu đường trong nước đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt do sản xuất đường liên tục suy giảm. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng đường công nghiệp ngành càng tăng. Việc thiếu hụt đường gần đây giúp giá mía và đường trong nước có xu hưởng ổn định, người nông dân trồng mía có giá bán tốt hơn nhưng nhu cầu tiêu thụ bị thiếu hụt.
Hạn ngạch ưu đãi nhập khẩu bị khống chế không đáp ứng được nhu cầu, thuế nhập khẩu đường chính ngạch ngoài hạn ngạch cao khiến gây khó khăn cho doanh nghiệp nhập khẩu khi giá đường thế giới tăng cao. Tình trạng này dẫn đến gia tăng nhập lậu đường qua nước như Lào, Campuchia với giá thấp hơn do không phải nộp thuế và cạnh tranh không lạnh mạnh với đường sản xuất trong nước và đường nhập chính ngạch. Điều này cho thấy để có thể đảm bảo nhu cầu tiêu thụ đường công nghiệp đồng thời ổn định giá đường tiêu thụ cho người tiêu dùng, hạn chế nhập lậu thì cần có chính sách linh hoạt trong chính sách thương mại đặc biệt là trong chính sách hạn ngạch đường nhập khẩu.
Trong ngắn hạn, cần có những điều chỉnh hợp lý tăng hạn ngạch nhập khẩu và tiếp tục thực hiện giải pháp phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thông qua đấu giá công khai minh bạch nhằm duy trì cân đối cung cầu bình ổn giá đường trong nước.
Bên cạnh đó, cần có nghiên cứu đánh giá tổng thể ngành mía đường để xây dựng các kịch bản xác định lượng hạn ngạch nhập khẩu tối ưu để đảm bảo cân đối cung cầu nhưng vẫn ổn định giá mía cho hộ nông dân, đánh giá và nghiên cứu chính sách hiệu quả hỗ trợ cho các hộ trồng mía, các nhà máy chế biến, đầu tư nghiên cứu giống mới có năng suất chất lượng cao giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm đường Việt Nam. Nghiên cứu tiếp tục áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế.
Ngoài ra, để bảo vệ sản xuất đường trong nước, cần tăng cường các giải pháp để phát hiện, bắt giữ, xử lý nghiêm hành vi buôn bán, vận chuyển trái phép, gian lận thương mại mặt hàng đường, quản lý chặt hình thức nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu và xuất xứ nguồn gốc hàng hóa nhằm ổn định, phát triển lành mạnh thị trường đường trong nước.
Link nội dung: https://pld.net.vn/nhu-cau-duong-cong-nghiep-viet-nam-thieu-hut-nghiem-trong-a14206.html