50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức: Hợp tác bền vững, Phát triển toàn diện

Ngày 23/9/1975 đánh dấu sự kiện lịch sử khi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Trải qua nửa thế kỷ, mối quan hệ giữa hai quốc gia đã không ngừng phát triển mạnh mẽ, toàn diện và hiệu quả, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, giáo dục và phát triển bền vững.

1-1749457208.jpg
 

Từ đối tác song phương đến đối tác chiến lược

Sau năm 1975, Đức là một trong những quốc gia phương Tây sớm bình thường hóa và tăng cường quan hệ với Việt Nam. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực vào năm 2020, hợp tác Việt - Đức ngày càng sâu rộng và đi vào chiều sâu.

Đức hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối Liên minh châu Âu EU, và là cửa ngõ để hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường châu Âu. Ngược lại, Việt Nam là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Đức tại khu vực Đông Nam Á.

Hợp tác kinh tế: Trụ cột vững chắc

Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 4 năm 2025, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Đức đạt 4,495 tỷ USD, tăng 23,3% so với 4 tháng đầu năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Đức đạt trên 3,289 tỷ USD và nhập khẩu đạt trên 1,2 tỷ USD, lần lượt tăng 27,84% và 12,41% so với cùng kỳ năm 2024.

Về xuất khẩu, tất cả các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Đức 4 tháng đều ghi nhận tăng trưởng dương. Trong đó, nhóm hàng vật liệu xây dựng tăng 86,8% so với cùng kỳ năm trước.

Với nhóm nông thủy sản, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt trên 823,73 triệu USD, tăng 74,03% trong đó hầu hết tất cả các mặt hàng có ghi nhận xuất khẩu trong nhóm này đều đạt tăng trưởng dương, cụ thể cà phê đạt trên 628,12 triệu USD tăng 97,62%; thủy sản trên 64,45 triệu USD, tăng 11%; hạt điều đạt trên 47 triệu USD, tăng 22,68%; hạt tiêu đạt trên 49,33 triệu USD tăng 88,05%; rau quả đạt 25,43 triệu USD tăng 28,11%.

Với nhóm hàng chế biến chế tạo, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,17 tỷ USD, tăng 16,23%, trong đó tăng mạnh ở mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt trên 403,28 triệu USD, tăng 56,45%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt trên 470,67 triệu USD, tăng 17,37%; đặc biệt ghi nhận sự tăng trưởng trở lại của các mặt hàng xuất khẩu truyền thống là dệt may (trên 263,27 triệu USD, tăng 30,76%), giày dép (259,13 triệu USD, tăng 7,37%).

Về nhập khẩu, các mặt hàng nhập khẩu chính từ Đức vào Việt Nam trong 4 tháng qua đều tăng trưởng tốt, nhất là nhóm mặt hàng chế biến, chế tạo (trừ hóa chất).

Cụ thể: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (đạt 436,4 triệu USD, tăng 14%); Dược phẩm (đạt 145,5 triệu USD, tăng 39,8%); Hóa chất (đạt 110,6 triệu USD, giảm 6,9%); Sản phẩm hóa chất (đạt 82,6 triệu USD, tăng 9,4%); Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (đạt 56,3 triệu USD, tăng 16,9%); Sản phẩm từ chất dẻo (đạt 30,8 triệu USD, tăng 18,7%); Linh kiện, phụ tùng ô tô (đạt 24,2 triệu USD, tăng 59,3%).

Đức là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong Liên minh châu Âu (EU), đặc biệt trong lĩnh vực thương mại nông lâm thủy sản.

Kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020, kim ngạch thương mại nông lâm thủy sản giữa hai nước đạt tăng trưởng ổn định. Riêng năm 2024, xuất khẩu nông lâm thủy sản từ Việt Nam sang Đức đạt 1,3 tỷ USD (tăng 32% so với 2023); nhập khẩu từ Đức đạt gần 200 triệu USD (tăng 23,9%).

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bao gồm cà phê, thủy sản, hạt điều, rau quả, gỗ và sản phẩm gỗ, chè và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ mây tre cói, thảm..., được người tiêu dùng Đức và châu Âu ưa chuộng. Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Đức chủ yếu là sữa và sản phẩm sữa, thuốc bảo vệ thực vật, nguyên liệu phân bón, cao su,..

Theo đánh giá, các sản phẩm này mang tính bổ sung cho nhau và không có sự cạnh tranh trực tiếp. Đức hiện là thị trường nông sản lớn thứ 7 của Việt Nam, chiếm 2,1% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản. Nước này cũng là cửa ngõ quan trọng để hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường EU với hơn 500 triệu dân và tổng nhu cầu nhập khẩu thực phẩm lên tới khoảng 160 tỷ Euro/năm.

Đức cũng là một nhà đầu tư lớn tại Việt Nam, với hơn 400 dự án đang hoạt động trong các lĩnh vực then chốt như công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, năng lượng sạch và dịch vụ hậu cần. Nhiều tập đoàn lớn của Đức như Siemens, Bosch, Mercedes-Benz, Deutsche Bank đã góp phần tạo ra hàng nghìn việc làm và chuyển giao công nghệ tiên tiến cho Việt Nam.

Giáo dục và đào tạo nghề: Biểu tượng của hợp tác bền vững

Không chỉ hợp tác kinh tế, Đức còn hỗ trợ tích cực Việt Nam trong giáo dục và đào tạo nghề theo mô hình “đào tạo kép” nổi tiếng. Các chương trình đào tạo nghề phối hợp giữa trường học và doanh nghiệp được triển khai rộng rãi, góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hiện đại.

2-copy-1749457208.jpg
 

Nhiều doanh nghiệp Đức không chỉ tài trợ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại mà còn trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo theo nhu cầu thực tế của sản xuất – kinh doanh. Nhờ đó, người học được trang bị đúng kỹ năng, đáp ứng ngay công việc sau khi tốt nghiệp, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng năng suất lao động.

Nhiều chương trình đào tạo nghề chất lượng cao được chuyển giao từ Đức đã góp phần nâng tầm trình độ cho học viên Việt Nam, đồng thời mở ra cơ hội việc làm tại thị trường lao động quốc tế. Các dự án hợp tác với tổ chức quốc tế như GIZ (Đức) là minh chứng rõ nét cho sự hợp tác bền vững, cùng nhau đầu tư vào con người - tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia.

Không chỉ đào tạo kỹ năng nghề, mà các chương trình đào tạo còn truyền tải các giá trị bền vững như bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên hiệu quả, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Sự hợp tác giữa Đức và Việt Nam trong đào tạo nghề góp phần xây dựng một thế hệ lao động mới không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có ý thức công dân toàn cầu, có khả năng thích ứng với những biến động của thời đại.

Ngoài ra, Đức là điểm đến học tập hàng đầu của sinh viên Việt Nam tại châu Âu, với hơn 7.000 sinh viên đang theo học tại các trường đại học và học viện tại đây.

Hợp tác phát triển và bảo vệ môi trường

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức toàn cầu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng đóng vai trò thiết yếu. Mối quan hệ giữa CHLB Đức và Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự hợp tác bền vững, hiệu quả và mang tầm chiến lược trong nỗ lực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

4-copy-1749457208.jpg
 

Đức luôn dành ưu tiên cao trong chính sách phát triển cho Việt Nam, đặc biệt ở các lĩnh vực như: Năng lượng tái tạo; Thích ứng với biến đổi khí hậu; Bảo vệ tài nguyên nước; Phát triển đô thị bền vững...

Là một trong những quốc gia đi đầu trong chính sách môi trường và chuyển đổi năng lượng. Với tư duy phát triển bền vững, Đức đã hỗ trợ Việt Nam thông qua nhiều chương trình và dự án lớn nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, tiết kiệm năng lượng và phát triển kinh tế tuần hoàn.

Nổi bật có thể kể đến lĩnh vực năng lượng tái tạo. Đức đã hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời, điện gió và các nguồn năng lượng bền vững. Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật năng lượng bền vững” là một ví dụ điển hình, giúp Việt Nam tăng cường khung pháp lý, quy hoạch và triển khai các dự án năng lượng sạch.

Bên cạnh đó, nhiều sáng kiến thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả trong các ngành công nghiệp và tòa nhà cũng được triển khai, hướng đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả.

Các chương trình do Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ) tài trợ, phối hợp cùng Tổ chức Hợp tác Phát triển GIZ, đã và đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng chính sách, nâng cao năng lực quản lý môi trường, cũng như thúc đẩy công nghệ sạch và năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Các chương trình hỗ trợ thông qua GIZ (Cơ quan Hợp tác Phát triển Đức) đã giúp Việt Nam nâng cao năng lực quản lý, quy hoạch và ứng phó với các thách thức toàn cầu.

Ngoài ra, những năm qua Đức hỗ trợ Việt Nam cải thiện hạ tầng xử lý nước thải, xây dựng hệ thống phân loại và tái chế rác thải theo tiêu chuẩn châu Âu. Các dự án thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh miền Trung đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong cải thiện chất lượng môi trường và ý thức cộng đồng.

Không chỉ dừng lại ở các giải pháp kỹ thuật, Đức còn hợp tác với Việt Nam trong giáo dục và đào tạo về môi trường. Nhiều chương trình đào tạo nghề về kỹ thuật môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo và quản lý tài nguyên bền vững đã được xây dựng. Điều này góp phần hình thành đội ngũ nhân lực có trình độ cao, sẵn sàng tham gia vào công cuộc bảo vệ môi trường lâu dài.

Sự hợp tác giữa Đức và Việt Nam trong lĩnh vực môi trường không chỉ đơn thuần là hỗ trợ phát triển, mà còn là sự đồng hành chiến lược giữa hai quốc gia cùng chung tầm nhìn về một tương lai xanh, ít phát thải và hài hòa với thiên nhiên.

Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26)Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, và Đức - với kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến đã và đang là đối tác không thể thiếu trong hành trình hiện thực hóa mục tiêu đầy tham vọng đó.

Tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước

Trong suốt 50 năm qua, mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và CHLB Đức không chỉ được thể hiện qua các hoạt động ngoại giao, hợp tác phát triển, mà còn được vun đắp bền chặt từ nền tảng nhân dân hai nước. Đó là một mối quan hệ chân thành, lâu dài, và không ngừng được củng cố bởi sự gắn bó, sẻ chia và tôn trọng lẫn nhau.

Trong thời kỳ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh, nhiều người Việt đã được đào tạo và làm việc tại CHDC Đức (Đông Đức trước đây), tạo nên một cộng đồng đông đảo và năng động. Sau khi nước Đức thống nhất, cộng đồng người Việt tiếp tục sinh sống, làm việc và đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế, xã hội tại Đức.

Một điểm nhấn đặc biệt trong quan hệ song phương là giao lưu nhân dân. Hiện có khoảng 200.000 người Việt sinh sống tại Đức, tạo nên cộng đồng người Việt lớn mạnh, đóng vai trò cầu nối quan trọng trong thúc đẩy hợp tác song phương.

Các hội đoàn người Việt, như Hội người Việt tại Berlin – Brandenburg, các hội thanh niên – sinh viên, hội phụ nữ, doanh nghiệp kiều bào… đã đóng vai trò là những "sứ giả văn hóa", là cầu nối thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Những hoạt động như lễ hội Tết cổ truyền, ngày văn hóa Việt Nam tại Đức, tuần phim Việt – Đức… ngày càng thu hút sự quan tâm của người dân sở tại và góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam một cách sinh động.

Bên cạnh đó, những người Đức yêu mến văn hóa và đất nước Việt Nam ngày càng nhiều hơn, thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, du lịch, và hợp tác nghệ thuật.

Nhiều công dân Đức cũng đã đến Việt Nam để giảng dạy, làm việc tình nguyện, nghiên cứu văn hóa và thiên nhiên, hoặc tham gia các hoạt động nhân đạo. Họ không chỉ mang theo tri thức, mà còn mang theo cả tấm lòng, sự cảm thông và mong muốn gắn bó lâu dài với đất nước hình chữ S.

Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Đức ngày càng đa dạng và phong phú. Các dự án hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh, văn học đã mang hai dân tộc xích lại gần nhau hơn. Viện Goethe – với trụ sở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh – không chỉ là nơi giảng dạy tiếng Đức mà còn là trung tâm văn hóa tích cực thúc đẩy đối thoại liên văn hóa.

Ở chiều ngược lại, các chương trình dạy tiếng Việt tại các trường học ở Đức, hoặc những buổi giao lưu văn hóa Việt Nam do cộng đồng tổ chức, đã góp phần giúp thế hệ trẻ người Việt hiểu và trân trọng cội nguồn, đồng thời giới thiệu bản sắc Việt đến với bạn bè quốc tế.

Tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Đức không chỉ là di sản quá khứ, mà còn là nền tảng cho sự hợp tác lâu dài trong tương lai. Những thế hệ trẻ của hai nước – với tri thức, năng động và cởi mở – chính là cầu nối quan trọng đưa mối quan hệ song phương lên tầm cao mới.

Thông qua các chương trình trao đổi sinh viên, du học, thực tập nghề và tình nguyện viên, giới trẻ Việt – Đức có cơ hội trải nghiệm, hiểu và đồng hành cùng nhau trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, bảo tồn văn hóa...

Tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Đức là biểu tượng đẹp của sự kết nối không biên giới giữa hai dân tộc từng trải qua nhiều biến động lịch sử. Được nuôi dưỡng bằng sự hiểu biết, tôn trọng và hợp tác chân thành, mối quan hệ này đang ngày càng lớn mạnh, trở thành nền tảng vững chắc cho quan hệ đối tác chiến lược giữa hai quốc gia. Đó không chỉ là câu chuyện của quá khứ, mà là hành trình đồng hành vì hòa bình, phát triển và tương lai chung.

3-1749457208.jpg
 

Tầm nhìn cho tương lai

Nhìn lại chặng đường 50 năm, quan hệ Việt Nam - Đức đã chuyển mình từ hợp tác đơn thuần sang đối tác toàn diện và chiến lược, đặt nền tảng vững chắc cho những bước phát triển vượt bậc trong tương lai.

Quan hệ giữa Việt Nam và Đức đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết. Không chỉ là những đối tác kinh tế, hai quốc gia còn đang cùng nhau xây dựng một tầm nhìn chung cho tương lai – nơi hợp tác không chỉ giới hạn trong thương mại hay đầu tư, mà còn mở rộng đến giáo dục, công nghệ, môi trường, và phát triển con người. Từ nền tảng vững chắc của mối quan hệ hữu nghị và đối tác chiến lược, Việt Nam và Đức đang hướng đến một tương lai cùng phát triển bền vững, hài hòa và đổi mới sáng tạo.

Quan hệ giữa hai nước được nuôi dưỡng không chỉ bằng những thỏa thuận cấp cao, mà còn bằng tình cảm gắn bó giữa nhân dân hai nước. Cộng đồng người Việt tại Đức và sự hiện diện văn hóa Đức tại Việt Nam là những nhịp cầu nhân văn quý giá, góp phần làm sâu sắc thêm sự hiểu biết, tin tưởng và gắn kết.

Trong tương lai, tăng cường giao lưu nhân dân, hợp tác văn hóa, du lịch và trao đổi thanh niên sẽ là những nhân tố then chốt để xây dựng một mối quan hệ không chỉ mang tính chiến lược, mà còn gần gũi, bền chặt và sống động.

Hoàng Bách

Link nội dung: https://pld.net.vn/50-nam-quan-he-ngoai-giao-viet-nam-duc-hop-tac-ben-vung-phat-trien-toan-dien-a19748.html