Từ khóa: Đảng cầm quyền, lập pháp, hành pháp, tư pháp
Đảng cầm quyền và việc vận hành quyền lực nhà nước nói chung là một trong những đặc điểm mang tính đặc trưng của các xã hội hiện đại, là sự tồn tại của Đảng cầm quyền nắm giữ, chi phối việc thực thi quyền lực nhà nước. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong bất kỳ nhà nước hiện đại nào, việc vận hành quyền lực nhà nước đều có sự chi phối của các đảng phái, đặc biệt là sự tồn tại của Đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền là Đảng thực tế nắm giữ, chi phối việc thực thi quyền lực nhà nước ở một thời điểm nhất định. Khi ở vị thế Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước trở thành một mối quan hệ đặc biệt, theo đó, việc thực thi quyền lực nhà nước được đặt trong sự chi phối của Đảng cầm quyền.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, tùy từng mô hình chính trị khác nhau mà cách thức cầm quyền của Đảng cầm quyền cũng khác nhau và nhìn chung, Đảng cầm quyền được hình thành cùng quá trình bầu cử, qua đó, người dân chọn lựa các ứng viên là đảng viên của Đảng để nắm giữ quyền lực trong Quốc hội hoặc quyền hành pháp. Ở một số quốc gia, thẩm phán thậm chí còn được hình thành bằng con đường bầu cử. Mặc dù vậy, nắm giữ quyền lập pháp và hành pháp thường là đích hướng tới chủ yếu của các đảng phái trong quá trình tranh cử để hướng tới địa vị là Đảng cầm quyền. Nghiên cứu sâu về Đảng cầm quyền thông qua các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho chúng ta thấy rất rõ điều đó.
Quyền lập pháp chính là quyền ban hành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc chung đối với toàn xã hội (các quy phạm pháp luật), thể hiện thông qua việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có tên là Luật. Chúng ta đều biết, thông qua hoạt động lập pháp, các chủ thể trong xã hội có thể hưởng thêm quyền, gánh thêm nghĩa vụ/trách nhiệm, từ đó ảnh hưởng tới vị thế, quyền lực thực tế của mình trong xã hội. Chính vì thế, quyền lập pháp là một quyền năng đặc biệt quan trọng của một xã hội. Thông qua việc thực thi quyền lập pháp, xã hội được hướng lái theo các lộ trình phát triển khác nhau. Chính vì tầm quan trọng đặc biệt này của việc thực thi quyền lập pháp nên các đảng phái thường rất mong muốn được nắm quyền lập pháp (thông qua việc chiếm cho mình càng nhiều càng tốt số ghế trong Quốc hội/Nghị viện – cơ quan cao nhất có quyền ban hành các đạo luật của một quốc gia).
Quyền hành pháp, về nguyên nghĩa ban đầu là quyền tổ chức thi hành các đạo luật hoặc quyết định do Quốc hội ban hành. Trong xã hội đương đại, quyền hành pháp chính là quyền hoạch định và điều hành chính sách quốc gia.[1] Thông qua hoạt động hành pháp, các đạo luật được tổ chức thực thi trong xã hội. Chủ thể nắm giữ quyền hành pháp còn có quyền năng đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng phương án phân bổ ngân sách quốc gia, trực tiếp điều hành việc phân bổ các nguồn lực, lợi ích vật chất và tinh thần của một quốc gia. Chính vì thế, nắm giữ quyền hành pháp cũng là một trong những mục tiêu quan trọng để các đảng phái chính trị hướng tới khi muốn trở thành Đảng cầm quyền.
Đối với hoạt động tư pháp, về bản chất, quyền tư pháp là quyền xét xử khách quan/công bằng/bất thiên vị các tranh chấp/vi phạm pháp luật trong xã hội trên cơ sở quy định của pháp luật.[2] Quyền tư pháp luôn có thiên chức bảo đảm cho công lý và pháp luật được thực thi. Chính vì thế, việc chi phối quyền tư pháp cũng là một trong những mục tiêu hướng tới của nền tư pháp. Nhìn vào thực tiễn vận hành nền tư pháp, người ta có thể biết được một xã hội có công bằng hay không công bằng, một xã hội có thượng tôn pháp luật hay là xã hội được quản trị, vận hành một cách tùy tiện, tùy hứng.
Thực trạng cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc thực hiện quyền lập pháp, theo quy định trong Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Quốc hội thực hiện quyền lập pháp thể hiện ở thẩm quyền “làm luật và sửa đổi luật”. Đặc biệt, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội ban hành luật hoặc văn bản có hiệu lực pháp lý tương đương để quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia và đối ngoại; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.[3]
Tuy Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, nhưng để bảo đảm cho Quốc hội ban hành được các đạo luật có chất lượng, hoạt động lập pháp của Quốc hội được kiểm soát chặt chẽ bởi quy trình, thủ tục và các quy tắc được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các đạo luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành trước đó (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, năm 2002, năm 2004, và năm 2008) đều có quy định để bảo đảm sự lãnh đạo/cầm quyền của Đảng ta đối với hoạt động lập pháp. Điều đó thể hiện ở các quy định sau:
– Các quy định về trách nhiệm bảo đảm sự tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng trong quá trình khởi thảo đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Khoản 2 Điều 32 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định rõ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên các căn cứ trong đó căn cứ đầu tiên là “đường lối, chủ trương của Đảng” (bên cạnh các căn cứ khác như: Kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh; Yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên).
– Các quy định về trách nhiệm bảo đảm sự tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng trong quá trình thẩm định đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Khoản 1 và 3 Điều 39 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định rõ Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao và các cơ quan, tổ chức có liên quan thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh trước khi trình Chính phủ. Một trong những nội dung thẩm định phải được thực hiện là “sự phù hợp của nội dung chính sách [trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh] với đường lối, chủ trương của Đảng” (bên cạnh các nội dung khác như sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của chính sách với hệ thống pháp luật v.v.). Yêu cầu bảo đảm tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng còn được tìm thấy trong các quy định về thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác, trong đó có các văn bản của chính quyền địa phương. Chẳng hạn, Điều 130 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chứa đựng nội dung rất quan trọng là “sự phù hợp của nội dung dự thảo quyết định với đường lối, chủ trương của Đảng”.
– Các quy định về trách nhiệm bảo đảm sự tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng trong quá trình thẩm tra đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, Điều 47 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định “Ủy ban pháp luật tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội và kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội... Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban pháp luật trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh” thuộc lĩnh vực do mình phụ trách, gửi văn bản thẩm tra đến Ủy ban pháp luật và cử đại diện tham dự phiên họp thẩm tra của Ủy ban pháp luật… Nội dung thẩm tra tập trung vào sự cần thiết ban hành; đối tượng, phạm vi điều chỉnh; chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh; “Nội dung của dự thảo văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau… Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng, tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật” Theo Điều 65 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) một trong những nội dung quan trọng hàng đầu mà cơ quan thẩm tra phải thực hiện khi thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là “sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng”, chính sách của Nhà nước; tính khả thi, tương thích, thứ tự ưu tiên, thời điểm trình, điều kiện bảo đảm để xây dựng và thi hành văn bản.
Ngoài ra, trong thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên ban hành các Nghị quyết định hướng về công tác xây dựng pháp luật nói chung và công tác lập pháp nói riêng. Chẳng hạn, trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng CSVN chủ trương “ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước”.[4] Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật “đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Nghị quyết cũng chủ trương “đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội… giảm dần việc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu lực.” Kết luận của Ban Bí thư số 64-KL/TW ngày 9/2/2010 về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW (Khóa IX) ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân chủ trương “sửa đổi, bổ sung một số quy định để giải quyết những vấn đề bất cập trong thực hiện chính sách về đất đai; hoàn thiện Luật Đất đai hiện hành”. “Tăng cường bảo đảm quyền lợi của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân. Sớm sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề; nghiên cứu xây dựng Luật an toàn vệ sinh lao động và các văn bản có liên quan nhằm làm rõ hơn trách nhiệm và quyền hạn của người lao động, người sử dụng lao động trong doanh nghiệp; nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật về lao động để kịp thời uốn nắn, xử lý những sai phạm trong quản lý lao động”.[5] Kết luận số 71-KL/TW ngày 4/5/2010 về kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước chủ trương “cải tiến quy trình và nâng cao chất lượng làm luật, pháp lệnh để sau khi có hiệu lực thì thực hiện được ngay, tránh tình trạng luật, pháp lệnh đã có hiệu lực nhưng không thực hiện được vì chưa có Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan. Xây dựng hệ thống văn bản QPPL đồng bộ, ổn định và thống nhất để sớm khắc phục sự vênh nhau giữa các quy định trong các văn bản QPPL”. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành trung ương về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đề ra nhiều chủ trương mang tính định hướng cho công tác lập pháp và xây dựng pháp luật ở nước ta. Chẳng hạn, Nghị quyết chủ trương “Hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống nhất, đồng bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch. Hoàn thiện các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản; phát triển hệ thống đăng ký minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận, nhất là bất động sản.” “Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh; tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà nước. Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”.[6] Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khẳng định “hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng; đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. Bổ sung một số ngành nghề kinh doanh mới được ưu đãi đầu tư để thúc đẩy tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.” Đây đều là những định hướng quan trọng của Đảng CSVN đối với công tác lập pháp nói riêng của Quốc hội và công tác xây dựng pháp luật nói chung của bộ máy nhà nước Việt Nam.
Sự cầm quyền của Đảng trong thực hiện quyền lập pháp còn thể hiện qua việc Đảng lãnh đạo công tác bầu cử Quốc hội. Thực tế cho thấy, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng công tác nhân sự bầu cử, số đại biểu Quốc hội là đảng viên nhận được sự tín nhiệm của nhân dân để trúng cử luôn đạt tỷ lệ rất cao (thường trên 90%). Đây chính là tiền đề, điều kiện để bảo đảm sự cầm quyền thực chất của Đảng trong việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội.
Thực tiễn, theo quy chế hoạt động trong Đảng, trong những trường hợp cụ thể, việc xây dựng các dự thảo Luật và văn bản quy phạm pháp luật còn phải xin ý kiến chỉ đạo từ cấp ủy có thẩm quyền. Chẳng hạn, sự cầm quyền của Đảng trong thực hiện quyền lập pháp được thực hiện thông qua cơ chế Đảng đoàn Quốc hội báo cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, về một số nội dung quan trọng trong mỗi dự thảo luật trước mỗi kỳ họp. Đảng đoàn Quốc hội là tổ chức Đảng được thành lập để nghiên cứu, đề xuất trình Bộ Chính trị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được thể chế hóa kịp thời, đúng đắn trong các luật, pháp lệnh. Đảng đoàn Quốc hội cũng thực hiện việc truyền đạt, quán triệt cho đảng viên là Đại biểu Quốc hội những chủ trương, quan điểm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị để đại biểu tham gia tích cực trong hoạt động chuẩn bị, thẩm tra, cho ý kiến, thông qua luật, pháp lệnh, tạo sự thống nhất cao trong quá trình xây dựng và thông qua dự luật, pháp lệnh. Trước các kỳ họp Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo với Bộ Chính trị về chương trình, nội dung kỳ họp, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trong quá trình chuẩn bị dự án luật, pháp lệnh, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo bằng văn bản các dự kiến và công tác chuẩn bị của Quốc hội. Tùy thuộc vào tính chất, nội dung mà Đảng đoàn Quốc hội báo cáo, có những vấn đề Bộ Chính trị cho ý kiến, có những vấn đề Ban Bí thư hoặc Thường trực Ban Bí thư cho ý kiến.[7] Trên cơ sở các tài liệu đã được giải mật, có thể thấy, việc Bộ Chính trị có thể cho ý kiến về nội dung rất cụ thể trong Dự án Luật. Chẳng hạn, Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 338-TB/TW ngày 11/5/2010 về một số dự án luật trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII có nội dung như sau: “Tại phiên họp ngày 7/5/2010 [của Bộ Chính trị], sau khi nghe Đảng đoàn Quốc hội báo cáo về Dự án Luật thuế nhà, đất trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII (Báo cáo số 319-BC/ĐDDQH12 ngày 4/5/2010), Bộ Chính trị đồng ý với ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội, chưa quy định nhà ở là đối tượng chịu thuế tại thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu quy định thuế nhà, đất đối với những người có nhiều nhà, đất, đảm bảo công bằng xã hội.” Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 340-TB/TW ngày 24/5/2010 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 và dự án Luật thi hành án hình sự có nội dung như sau “Tại phiên họp ngày 21/5/2010, sau khi nghe Báo cáo của Đảng đoàn Quốc hội và ý kiến của các cơ quan hữu quan về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 và dự án Luật Thi hành án hình sự, Bộ Chính trị có ý kiến như sau: “Về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011: Cơ bản đồng ý với định hướng xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 như Báo cáo của Đảng đoàn Quốc hội (Báo cáo số 330-BC/ĐĐQH12 ngày 17/5/2020); số lượng các dự án pháp luật và thời điểm trình Quốc hội xem xét tại các kỳ họp cụ thể do Quốc hội quyết định trên cơ sở kết quả thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng pháp luật năm 2011, bảo đảm chất lượng, tiến độ, tính khả thi, phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng kỳ họp trong năm 2011. Đồng ý chuyển các dự án luật về tổ chức bộ máy nhà nước từ chương trình chuẩn bị năm 2010 sang chương trình chuẩn bị năm 2011; bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 như đề nghị của Đảng đoàn Quốc hội.” “Về quy định hình thức thi hành án tử hình trong dự thảo Luật Thi hành án hình sự: Tiếp tục quán triệt, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại phiên họp ngày 5/9/2008 (Thông báo 184-TB/TW ngày 10/9/2008 về Đề án giảm hình phạt tử hình và thay đổi hình thức thi hành hình phạt tử hình). Trình Quốc hội thảo luận, xem xét, quyết định việc thay đổi hình thức xử bắn bằng tiêm thuốc độc. Nếu Quốc hội đồng ý thì quy định rõ trong luật; trong đó, xác định rõ thời gian thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thực hiện.” Một ví dụ khác là Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 385-TB/TW ngày 25/10/2010 có nội dung “về Dự án Luật viên chức: Cần quy định người đăng ký dự tuyển làm viên chức phải là người có quốc tịch Việt Nam và phải cư trú tại Việt Nam. Nếu cần thu hút kinh nghiệm, chất xám của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài vào các hoạt động chuyên môn trong những trường hợp cần thiết thì nghiên cứu, áp dụng cơ chế khác”. “Về Dự án Luật Thanh tra: Không nên quy định việc tổ chức thanh tra chuyên ngành ở tổng cục, cục thuộc Bộ, chi cục thuộc Sở. Mỗi Bộ chỉ nên có một tổ chức thanh tra (thanh tra Bộ); bảo đảm cho người đứng đầu các bộ, ngành có điều kiện chỉ đạo, điều hành và quản lý thống nhất các hoạt động thanh tra thuộc bộ, ngành mình; nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước theo đúng các yêu cầu của cải cách hành chính và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN”. “Về Dự án Luật Tố tụng hành chính: Lưu ý, tính toán, cân nhắc kỹ việc quy định bổ sung một cơ chế đặc biệt để xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC đối với trường hợp phát hiện quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC có sai lầm nghiêm trọng hoặc sau khi Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm thì mới phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án. Các cơ quan tư pháp cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, đề xuất cơ chế áp dụng cho cả tố tụng dân sự, tố tụng hình sự”. “Về Dự án Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Nên quy định việc tham gia của các tổ chức xã hội vào công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; không quy định một tổ chức xã hội cụ thể nào. Khi thực hiện một số nhiệm vụ được các cơ quan nhà nước giao, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo quy định của Chính phủ”. Thông báo này cũng có nội dung “Trong quá trình Quốc hội thảo luận, nếu có vấn đề gì cần thiết, Đảng đoàn Quốc hội kịp thời báo cáo Bộ Chính trị”. Những ý kiến kể trên được đưa ra ngay trước thời điểm Quốc hội họp để chính thức thông qua các đạo luật được cho ý kiến.
Có thể khẳng định rằng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật (nhất là trong thực hiện quyền lập pháp) (bằng việc ban hành Nghị quyết định hướng đối với hoạt động lập pháp, tiến cử người để bầu vào Quốc hội và nắm giữ những cương vị then chốt trong Quốc hội, cho ý kiến về nội dung các dự án luật trước khi Quốc hội chính thức thông qua, quy định trách nhiệm bảo đảm tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật) là vô cùng cần thiết và là đương nhiên trong bối cảnh Đảng lãnh đạo/cầm quyền.
Mặc dù vậy, thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn đề cần phải xử lý:
– Cấp ủy Đảng có thẩm quyền đã cho ý kiến nhưng có thể do thông tin đến với đại biểu dân cử (là đảng viên) chưa kịp thời hoặc chưa đầy đủ nên đại biểu dân cử vẫn phát biểu theo hướng khác với ý kiến của cấp có thẩm quyền. Ngoài ra, cũng có trường hợp, do đại biểu dân cử biết là cấp ủy có thẩm quyền đã có ý kiến về nội dung dự án văn bản quy phạm pháp luật nhưng do không nắm được đầy đủ nên ngại bày tỏ quan điểm, sợ đưa ra các ý kiến phát biểu trái với ý kiến của cấp có thẩm quyền. Điều này sẽ làm cho hoạt động của cơ quan dân cử có lúc không được thực chất như tinh thần các quy định của pháp luật cũng như kỳ vọng của người dân và của chính cấp ủy có thẩm quyền.
– Cấp ủy Đảng có thẩm quyền đã cho ý kiến nhưng sau khi bàn tại cơ quan dân cử, các ý kiến phát biểu tại cơ quan dân cử lại theo chiều hướng khác, nhiều khi cơ quan dân cử không đưa tới kết quả biểu quyết giống như ý kiến chỉ đạo của cấp ủy có thẩm quyền. Điều này sẽ làm cho ý kiến của cấp ủy có thẩm quyền không được hiện thực hóa đầy đủ.
Đây là những tình huống đã và có thể sẽ phát sinh mà nếu xử lý khéo sẽ vừa bảo đảm đúng vai trò lãnh đạo của cấp ủy có thẩm quyền, vừa bảo đảm tính thực chất, hiệu lực, hiệu quả của cơ quan dân cử. Ngược lại, nếu xử lý không khéo, sẽ ảnh hưởng không tốt tới hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo của cấp ủy có thẩm quyền đồng thời cũng ảnh hưởng không có lợi cho uy tín và sự vận hành của cơ quan dân cử.
Đảng ta rất coi trọng việc cầm quyền thông qua việc thực hiện quyền hành pháp. Trong thực tiễn, Đảng ta thực hiện vai trò này thông qua nhiều phương thức quan trọng như: Ban hành các Nghị quyết định hướng hoạt động của nền hành chính (chẳng hạn, các Nghị quyết về cải cách hành chính như Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước), tiến cử người với các cơ quan dân cử để bầu cử, phê chuẩn nhân sự nắm giữ các vị trí then chốt trong bộ máy hành chính (Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng)[8], cho ý kiến đối với những vấn đề cụ thể trong việc thực hiện quyền hành pháp theo quy chế, quy định của Đảng (nhất là lãnh đạo của Đảng đối với các công việc của Chính phủ). Thực tiễn cho thấy, không ít việc, mặc dù về mặt thực tế quy định của pháp luật, là thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp Bộ trưởng, nhưng trên thực tế, để vận hành được thì đều phải xin ý kiến cấp ủy có thẩm quyền. Công tác cán bộ, công tác tư tưởng, công tác tổ chức, bộ máy, các hoạt động quốc phòng, an ninh, đối ngoại, các hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của Đảng, đều phải có ý kiến của cấp ủy có thẩm quyền trước khi các chủ thể thực thi quyền hành pháp có thể tiến hành công việc của mình. Xem lại thực tiễn vận hành của Chính phủ và các chủ thể có liên quan trên cơ sở các tài liệu đã giải mật, có thể thấy không ít ví dụ như vậy:
– Ngày 29/9/2010, Bộ Chính trị có Kết luận số 83-KL/TW về tình hình kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2011; Kết luận số 84-KL/TW về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước 5 năm 2011-2015.
– Ngày 01/10/2010, Bộ Chính trị có thông báo Kết luận số 381-TB/TW về chủ trương đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU) (trên cơ sở phiên họp ngày 1/10/2010 sau khi nghe Ban cán sự đảng Bộ Công thương được ủy quyền của Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về đàm phán FTA với EU số 03/BC-BCSĐ ngày 12/4/2010 và số 93/TTr-BCSĐ ngày 29/9/2010): (1) Đồng ý với chủ trương cho phép khởi động đàm phán FTA với EU trên cơ sở các nội dung, nguyên tắc định hướng được nêu trong báo cáo của Ban cán sự đảng Bộ Công Thương. Trong quá trình đàm phán, nếu xuất hiện các vấn đề lớn, có tính nhạy cảm cao, Chính phủ cần tiếp tục xin chủ trương của Bộ Chính trị.
– Bộ Chính trị từng cho ý kiến về Đề án tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên (tại Thông báo số 327-TB/TW ngày 16/4/2010) với nội dung như sau: “Tại phiên họp ngày 10/4/2010, xem xét Tờ trình của Ban cán sự Đảng Chính phủ về Đề án tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Bộ Chính trị cơ bản đồng ý với nội dung của Đề án, đồng thời nhấn mạnh một số nội dung sau: (1) Về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở Trung ương: Chính phủ giao Bộ Nội vụ là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Bộ Nội vụ thành lập “Vụ Công tác thanh niên” để giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ thực hiện toàn diện các nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật về công tác thanh niên. Ở địa phương: Đối với cấp tỉnh, Bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên cho UBND cấp tỉnh, giao cho Sở Nội vụ thực hiện nhiệm vụ này. Sở Nội vụ được thành lập “Phòng Công tác thanh niên” để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn. Đối với cấp huyện: Bổ sung và quy định nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn và giao cho Phòng Nội vụ trực thuộc UBND cấp huyện thực hiện; (2) Kiện toàn Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam theo hướng xác định rõ trách nhiệm của cơ quan này…Bổ sung thêm hai nhân sự làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam; trong đó một nhân sự là Thứ trưởng Bộ Nội vụ và một nhân sự là Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và căn cứ nội dung Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các cơ quan có liên quan bổ sung, hoàn chỉnh các quy định của pháp luật để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên”.
– Bộ Chính trị cũng cho ý kiến về việc xử lý trường hợp của Tập đoàn Vinashin (theo Kết luận số 81-KL/TW ngày 6/8/2010 của Bộ Chính trị, trên cơ sở phiên họp ngày 31/7/2010 của Bộ Chính trị sau khi nghe Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về tình hình tập đoàn Vinashin, ý kiến của Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy ban kiểm tra Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Công an và một số bộ, ngành Trung ương). Nghiên cứu kỹ ý kiến của Bộ Chính trị đối với trường hợp xử lý các vấn đề của Tập đoàn Vinashin có thể thấy rằng, Bộ Chính trị cho ý kiến rất kỹ lưỡng, kể cả những vấn đề rất cụ thể trong việc tái cấu trúc hoạt động của Tập đoàn này. Theo ý kiến Kết luận, kể từ khi thành lập Tổng công ty công nghiệp tầu thủy Việt Nam (1996) sau đó nâng cấp thành Tập đoàn Vinashin vào năm 2006, Tập đoàn đã có bước phát triển nhanh trên nhiều mặt (xây dựng được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có khả năng đóng tàu trọng tải lên tới 100.000DWT). Tuy nhiên, ở thời điểm Bộ Chính trị kết luận (năm 2010), Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng như: Đầu tư mở rộng quá nhanh, dàn trải, một số dự án trái quy hoạch, nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề, tình hình tài chính đứng tước bờ vực phá sản (dư nợ lên tới 86.000 tỷ đồng, gấp 11 lần vốn chủ sở hữu với 14.000 tỷ nợ đến hạn phải trả, khó có khả năng cân đối dòng tiền); “sản xuất kinh doanh hiện đang bị đình trệ, bị mất hoặc giảm nhiều đơn hàng, nhiều dự án đầu tư dở dang, không hiệu quả”, “tình hình nội bộ diễn biến phức tạp” (17.000 công nhân chuyển việc hoặc bỏ việc, 5000 công nhân mất việc làm, nhiều công nhân bị chậm trả lương trong nhiều tháng). Kết luận cho rằng “tình hình của Vinashin có thể ảnh hưởng xấu đến các tổ chức tín dụng, các đơn vị được nhận chuyển giao, ngân sách nhà nước, sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, việc làm và thu nhập của cán bộ, công nhân Tập đoàn và nhiều hộ gia đình nông dân nơi có đất bị thu hồi, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển DNNN và mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước; tác động tiêu cực đến ổn định chính trị – xã hội của đất nước”. Kết luận cũng nêu rõ cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, đồng thời khẳng định “nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trước hết thuộc về trách nhiệm trực tiếp của HĐQT và Ban Lãnh đạo tập đoàn, trong đó có cá nhân Chủ tịch HĐQT Tập đoàn và trách nhiệm của một số cơ quan quản lý có liên quan ở Trung ương và địa phương”. “Lãnh đạo Tập đoàn, trước hết là HĐQT và người đứng đầu với chức năng đại diện trực tiếp chủ sở hữu đã có nhiều khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức, quản lý, điều hành, nhất là trong xác định lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, tổ chức quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiên shanfh hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ; trong một thời gian ngắn đã mở rộng quá nhanh quy mô tập đoàn, nhất là mở ra rất nhiều công ty con, công ty liên kết; mở sang một số lĩnh vực không phải là những chuyên ngành phục vụ cho nhiệm vụ chính của mình.” “Một số cơ quan tham mưu liên quan thuộc Chính phủ, một số địa phương và một số cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát ở Trung ương có thiếu sót, khuyết điểm …từ năm 2006-2009, tuy đã qua 11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra nhưng vẫn không phát hiện được đầy đủ, kết luận đúng tình hình và những yếu kém, khuyết điểm nghiêm trọng của Tập đoàn…mặc dù những biểu hiện về khó khăn, khuyết điểm của Vinashin đã được cơ quan thông tin đại chúng và dư luận phản ánh, cảnh báo từ sớm và nhiều lần”. Để khắc phục những khuyết điểm, sai phạm trên, Bộ Chính trị giao: “(1) Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì chỉ đạo: Phát huy những kết quả đã đạt được của Vinashin trong nhiều năm qua tiếp tục khẳng định công nghiệp cơ khí chế tạo là ngành trọng điểm trong chiến lược CNH, HĐH đất nước; ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển là ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế hàng hải và thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Khẩn trương cơ cấu lại Tập đoàn Vinashin theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa IX) và Kết luận số 45-KL/TW ngày 10/4/2009 của Bộ Chính trị về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế; chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là: Công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển với quy mô phù hợp; công nghiệp phụ trợ phục vụ cho đóng và sửa chữa tàu biển; đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ, công nhân công nghiệp tàu biển… Cương quyết không để vỡ nợ, sụp đổ, gây tác động xấu đến sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu, mức độ tín nhiệm vay, trả nợ quốc tế và môi trường đầu tư của đất nước”. “Giao cơ quan chức năng sớm điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm minh, kịp thời, khách quan những cá nhân vi phạm pháp luật theo đúng quy định của pháp luật”.
Nhìn chung, để bảo đảm được vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với việc thực hiện quyền hành pháp, việc quy định các vấn đề nhất định thuộc phạm vi thực hiện quyền hành pháp phải báo cáo Bộ Chính trị là cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đặt ra vấn đề làm sao các nội dung của các chủ thể thực hiện quyền hành pháp phải báo cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị cần được quy định thế nào để công việc không bị dồn lên vai của Bộ Chính trị và bảo đảm tính chủ động, sáng tạo và đặc biệt là tính chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia thực hiện quyền hành pháp (nhất là tính chịu trách nhiệm cá nhân của các chủ thể này). Đây cũng là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện phương thức lãnh đạo/cầm quyền của Đảng phù hợp trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh những diễn biến của tình hình thực tiễn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập sâu rộng và cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn biến rất nhanh chóng, nhiều khi là khó lường.
Các công trình nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra những vấn đề có thể nảy sinh trong quá trình cầm quyền của Đảng đối với việc thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, “số lượng các vấn đề quan trọng mà Ban cán sự Đảng Chính phủ, các Ban cán sự Đảng ở các bộ phải báo cáo, xin ý kiến Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư vẫn quá nhiều… có cả những vấn đề quá cụ thể mà theo quy định, nó hoàn toàn nằm trong phạm vi xử lý của Chính phủ, của các bộ…[điều này] đã làm cho khối lượng công việc cần xử lý của Bộ Chính trị và Ban Bí thư trở nên quá tải”.[9] Thêm vào đó, việc để quá nhiều vấn đề cần xin ý kiến Bộ Chính trị và Ban Bí thư còn có thể dẫn tới tình trạng các nhà chính trị phải thực hiện công việc của các nhà chuyên môn.[10] Ngoài ra, mối quan hệ giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Ban cán sự đảng của các Bộ cũng có khía cạnh cần căn tính thêm xét từ góc độ trật tự quyền lực, nhất là khi Ban cán sự đảng các Bộ trực tiếp báo cáo với Bộ Chính trị và Ban Bí thư bởi người đứng đầu các Bộ phải chấp hành các quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (trong khi bí thư Ban cán sự Đảng các Bộ lại chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư mà không thông qua Ban cán sự đảng Chính phủ).[11] Ngoài ra, cũng có nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tình trạng ban hành chương trình hành động của các cơ quan thuộc lĩnh vực hành pháp đối với việc triển khai các nghị quyết của cấp ủy còn chưa kịp thời.[12] Điều này cũng không có lợi cho việc bảo đảm sự cầm quyền của Đảng trong thực tiễn thực hiện quyền hành pháp.
Đối với quyền tư pháp, Đảng ta cầm quyền thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết quan trọng đồng thời tổ chức ra Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao cũng như các thiết chế có liên quan khác để thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra mục tiêu “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.” Chiến lược cũng đề ra 5 quan điểm chỉ đạo tiến trình cải cách tư pháp, trong đó, quan điểm đầu tiên là “cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.” Chiến lược cũng khẳng định “cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính”; “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân”; “kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai”; “phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc”.
Chiến lược cải cách tư pháp triển khai với 4 phương hướng và 8 nhóm nhiệm vụ cải cách tư pháp cụ thể. Một trong 8 nhóm nhiệm vụ đó là “hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp” theo đó: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp và chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm viện trưởng viện kiểm sát và chánh án tòa án các cấp. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức đảng với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Nội chính cấp ủy ở những tỉnh, thành có nhu cầu và được Bộ Chính trị cho phép thành lập; tăng cường cán bộ tham mưu về công tác nội chính – tiếp dân của cấp ủy đảng.”
Trên cơ sở Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020, Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương do đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước làm Trưởng Ban. Thực tiễn, trong 15 năm qua, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, công tác cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, đặc biệt là các thành tựu về việc hoàn thiện thể chế phục vụ sự vận hành của nền tư pháp, các thành tựu về củng cố đội ngũ cán bộ tư pháp và sự đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp và việc củng cố hệ thống bổ trợ tư pháp. Bộ Chính trị cũng đã ban hành nhiều kết luận quan trọng trong quá trình tổ chức triển khai Nghị quyết số 49-NQ/TW (như Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020…). Cũng trên cơ sở của Chiến lược này, Hiến pháp năm 2013 và hàng loạt đạo luật về tổ chức bộ máy các cơ quan như tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án đã được ban hành. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 (Khoản 2 Điều 103), “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Nói cách khác, sự độc lập của hoạt động xét xử của tòa án được Hiến pháp đặc biệt đề cao.
Tuy vậy, thực tiễn cho thấy sự can thiệp của các cá nhân lãnh đạo, cấp ủy địa phương vào các vụ án đã giảm nhiều so với trước nhưng không phải tình trạng đó đã chấm dứt hoàn toàn. Các nghiên cứu đã công bố một số năm trước đây đã chỉ ra rằng “có không ít cá nhân lợi dụng danh nghĩa lãnh đạo, tổ chức đảng để can thiệp vào quá trình điều tra, xét xử những trường hợp sai phạm” nhất là các vụ án “đụng đến sai phạm của cá nhân lãnh đạo, của tập thể lãnh đạo chính quyền, của cấp ủy địa phương”.[13] Có thể nói, cho đến nay, việc bảo đảm sự lãnh đạo/cầm quyền của Đảng đối với việc thực hiện quyền tư pháp vẫn có khía cạnh quan trọng phải giải quyết là làm sao bảo đảm được một cách thực chất nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án các cấp. Điều này cũng đặt ra yêu cầu làm sao để quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực sự diễn ra đúng quy định của pháp luật, loại trừ mọi tác động trái phép vào tiến trình vận hành bình thường mà pháp luật đã quy định.
Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế cầm quyền của Đảng đối với việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trước tiên cần nắm thật chắc, thật chặt việc lãnh đạo thực hiện quyền lập pháp. Cần xem quyền lập pháp là linh hồn trong cơ chế lãnh đạo/cầm quyền của Đảng, bảo đảm tính thực chất của sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền lập pháp nói riêng và trong hoạt động xây dựng pháp luật nói chung. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, chất lượng của thể thế là một trong những yếu tố mang tính cốt lõi trong việc duy trì năng lực cạnh tranh quốc gia, việc coi trọng, bảo đảm chất lượng tốt nhất của các đạo luật do Quốc hội ban hành cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, qua đó gia tăng tính thuyết phục và tính khả thi của pháp luật càng trở nên quan trọng.
Bảo đảm sự cầm quyền của Đảng trong việc thực hiện quyền lập pháp, vì thế trước tiên là bảo đảm ý chí của Đảng (chủ trương, đường lối của Đảng trong các nghị quyết, chỉ đạo của Đảng) được thể chế hóa đầy đủ và kịp thời mà đi kèm với đó vấn đề chính phải là làm thế nào để ban hành được các đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng cao nhất, thúc đẩy phát triển bền vững đất nước phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ. Điều này có nghĩa rằng, khâu xây dựng đường lối, chính sách của Đảng phải tiếp tục được tăng cường thông qua hoạt động nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, tăng tính dân chủ, sát thực tiễn trong các quyết sách của Đảng và các cấp ủy Đảng.
Bên cạnh đó, khi đã có các chủ trương, đường lối của Đảng, cần kịp thời thể chế hóa ở tầm, mức phù hợp với sự phân vai giữa vai trò của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan trong quản trị, điều hành quốc gia.
Ngoài ra, phải bảo đảm sự liên thông, kết nối, tính liên tục trong chu trình xây dựng chính sách, pháp luật của Việt Nam. Bảo đảm mọi thông tin về tình hình thi hành pháp luật đến kịp thời với các cơ quan tham mưu của Đảng. Có giải pháp đưa các cán bộ giỏi trong lĩnh vực xây dựng pháp luật về các cơ quan tham mưu của Đảng để bảo đảm nguyên tắc cán bộ của Đảng phải giỏi hơn một bậc và giàu kinh nghiệm hơn một bậc so với cán bộ của bên chính quyền cùng cấp.
Ngoài ra, cần cân nhắc, tính toán thêm cách thức lãnh đạo/cầm quyền để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng chỉ tập trung xử lý các vấn đề then chốt nhất, giảm bớt các quyết định quá cụ thể trong công tác lập pháp, từ đó bảo đảm dư địa thảo luận và quyết định của cơ quan lập pháp thực chất hơn nữa.
Sau khi đã nắm thật chắc quyền lập pháp, Đảng cầm quyền cần nắm việc thực hiện quyền hành pháp một cách cụ thể, bởi việc thực hiện quyền hành pháp thường dễ nảy sinh khả năng lạm dụng quyền lực. Chính vì thế, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện quyền hành pháp là vô cùng cần thiết. Để bảo đảm sự cầm quyền của Đảng thông qua quyền hành pháp, đầu tiên cần thực hiện việc chọn lựa, giới thiệu đội ngũ cán bộ có uy tín, năng lực, phù hợp với công việc hành pháp để nắm giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy hành pháp. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu. Đi kèm với đó là việc thiết kế cơ chế giám sát quyền lực từ phía các cơ quan của Đảng một cách phù hợp để sự vận hành quyền hành pháp luôn nằm trong quỹ đạo vì lợi ích của nhân dân theo chủ trương, đường lối của Đảng. Cần cân nhắc lại nội dung phạm vi các công việc mà Ban cán sự đảng các cơ quan trong hệ thống hành pháp phải báo cáo, xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để giảm tải khối lượng công việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tăng tính chịu trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan trong hệ thống hành pháp, tăng tính chịu trách nhiệm của các Ban cán sự đảng ở các cơ quan trong hệ thống hành pháp.
Đảng cầm quyền thông qua việc nắm chắc quyền lập pháp, hành pháp và cũng không thể thiếu vắng quyền tư pháp, việc thực thi quyền tư pháp có quy luật và đòi hỏi riêng không hoàn toàn giống với việc thực thi quyền lập pháp và hành pháp. Chính vì thế, cơ chế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với việc thực hiện quyền tư pháp cũng phải có yêu cầu, đòi hỏi riêng, cần được thiết kế cơ chế cầm quyền của Đảng thông qua việc thực hiện quyền tư pháp một cách khéo léo. Chẳng hạn, bảo đảm sự độc lập trong hoạt động xét xử cần được coi là yêu cầu có tính thiêng liêng mà sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải tôn trọng ở mức cao nhất.
Từ thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng CSVN trong việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam thời gian qua, chúng tôi cho rằng, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện quyền tư pháp bằng việc tăng cường ban hành các chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp một cách sát thực tiễn, đồng thời tăng cường công tác đào tạo, rèn luyện cán bộ, đưa những cán bộ thực sự đủ đức, đủ tài, bản lĩnh chính trị cao, trong sạch/liêm khiết nắm giữ các vị trí trong bộ máy các cơ quan tư pháp. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng thể chế cho việc vận hành quyền tư pháp (Luật Tổ chức tòa án, các đạo luật tố tụng), trong đó, bảo đảm quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực sự có hiệu lực, hiệu quả, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Kiên quyết và kiên trì không can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử của tòa án (nhất là với các vụ tranh chấp về dân sự, kinh tế, thương mại, các vụ xử lý hình sự thường không liên quan tới quan hệ đối ngoại và an ninh quốc gia/chức sắc tôn giáo). Khi phát hiện bất cập của pháp luật từ quá trình xét xử, không lấy nghị quyết, chỉ đạo của Đảng để sửa sai ngay (can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử) mà căn chỉnh bằng quy trình pháp lý phù hợp.
TÓM LẠI:
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó, thượng tôn pháp luật là yêu cầu hàng đầu đòi hỏi cách thức tổ chức, vận hành phương thức cầm quyền của Đảng trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có những yêu cầu mới, tránh các biểu hiện ứng xử tùy tiện, thiếu thuyết phục hoặc bị bóp méo vì ý đồ cá nhân hoặc bị chi phối bởi lợi ích riêng/lợi ích nhóm và cần bảo đảm bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo đúng chủ trương nhất quán của Đảng CSVN trong tiến trình cách mạng. Chính vì thế, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế cầm quyền của Đảng CSVN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời hoàn thiện cơ chế giám sát, bảo đảm cho các cấp ủy đảng luôn thực hiện nghiêm túc, đầy đủ thể chế cầm quyền của Đảng đối với việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Xử lý đúng và khéo vấn đề này vừa góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững, gia tăng sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân với Đảng, tạo dựng và giữ được uy tín của Đảng CSVN đối với chính trường quốc tế trong thời kỳ Hội nhập toàn cầu, vừa bảo đảm sự lãnh đạo/cầm quyền thực chất, hiệu quả của Đảng CSVN, duy trì được sự phát triển bền vững tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng ước nguyện của nhân dân./.
Luật gia. Tô Giang, Viện Khoa học tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương
TS. Nguyễn Văn Cương, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
[1] Nguyễn Văn Cương, “Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2014 tr. 16-22.
[2] Xem thêm: TS. Nguyễn Văn Quyền – PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (đồng chủ biên), Quyền Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Từ lý luận đến thực tiến (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2018) tr. 16-21.
[3] Điều 15 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định Quốc hội ban hành luật để quy định: a) Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; b) Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; c) Chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; d) Chính sách cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường; đ) Quốc phòng, an ninh quốc gia; e) Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; g) Hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao; hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; h) Chính sách cơ bản về đối ngoại; i) Trưng cầu ý dân; k) Cơ chế bảo vệ Hiến pháp; l) Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
[4] GS.TS. Phạm Ngọc Quang (chủ biên), Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2008) tr. 72.
[5] Trong thực tế, trên cơ sở những chủ trương này, Bộ luật Lao động năm 2012 đã được ban hành (sau này Bộ luật này lại được thay thế bởi Bộ luật lao động năm 2019) thay thế cho Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007). Tương tự, cũng trên cơ sở những chủ trương này, Luật Bảo hiểm xã hội được ban hành năm 2014.
[6] Đây chính là một trong những cơ sở chính trị để xây dựng Luật Cạnh tranh năm 2018 (thay thế Luật Cạnh tranh năm 2004).
[7] GS.TS. Phạm Ngọc Quang (chủ biên), Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2008) tr. 74-76.
[8] Trên thực tế, với việc đặt ra quy định nhân sự được bổ nhiệm giữ vị trí cấp lãnh đạo vụ trở lên phải tốt nghiệp chương trình cao cấp lý luận chính trị, nhìn chung, lãnh đạo cấp Vụ phải là đảng viên.
[9] GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Đảng Cộng sản cầm quyền: Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2011) tr. 198.
[10] GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Đảng Cộng sản cầm quyền: Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2011) tr. 199-200.
[11] GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Đảng Cộng sản cầm quyền: Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2011) tr. 202.
[12] PGS.TS. Lê Quốc Lý (chủ biên), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2014) tr. 288.
[13] GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Đảng Cộng sản cầm quyền: Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2011) tr. 210.
Link nội dung: https://pld.net.vn/dang-cam-quyen-thong-qua-quyen-lap-phap-hanh-phap-va-tu-phap-o-viet-nam-a2562.html