Bổ sung quy định nghiêm cấm thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, những năm qua, tình trạng mua bán bào thai nhằm mục đích mua bán đứa trẻ sau khi được sinh ra đang là thực tế đáng lo ngại. Việc thỏa thuận mua bán này thực chất là tiền đề của hành vi mua bán người .

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, chiều 22/10, tại Nhà Quốc hội, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đã trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi).

du-thao-luat-phong-chong-mua-ban-nguoi-2337-1729655749.jpg
Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: quochoi.vn)

Hoàn thiện dự thảo Luật để xử lý hiệu quả tội phạm mua bán người
Về khái niệm mua bán người (khoản 1 Điều 2 dự thảo luật), bà Nga cho biết, UBTVQH nhận thấy, khái niệm mua bán người trong dự thảo Luật cơ bản đã bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, phúc đáp yêu cầu thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống mua bán người (PCMBN), bảo đảm tiệm cận với các điều ước quốc tế về PCMBN mà Việt Nam là thành viên.

UBTVQH cho rằng, với khái niệm "mua bán người" được quy định rộng hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự sẽ làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự nhằm xử lý hiệu quả hơn loại tội phạm này và nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân về PCMBN.

Đồng thời để bảo đảm tính nghiêm minh và tăng cường công tác phòng ngừa, khái niệm “mua bán người” trong dự thảo Luật còn có nội dung rộng hơn quy định của một số điều ước quốc tế, như: bổ sung mục đích vô nhân đạo khác, thủ đoạn khác.

chu-nhiem-uy-ban-tu-phap-quoc-hoi-le-thi-nga-2337-1729655713.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi). (Ảnh: quochoi.vn)

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga thông tin, có một số ý kiến đề nghị bổ sung hành vi “thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai” vào khái niệm mua bán người tại khoản 1 Điều 2 của dự thảo luật này, nhằm làm cơ sở đấu tranh phòng, chống hiệu quả thực trạng thỏa thuận mua bán người khi còn đang là bào thai.

UBTVQH nhận thấy, những năm qua, tình trạng mua bán bào thai nhằm mục đích mua bán đứa trẻ sau khi được sinh ra đang là thực tế đáng lo ngại. Việc thỏa thuận mua bán này thực chất là tiền đề của hành vi mua bán người (mua bán người từ giai đoạn còn đang là bào thai), nhưng việc xử lý hành vi này lại chưa được pháp luật điều chỉnh. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật đã quy định hành vi nghiêm cấm “thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai”.

Đề nghị giữ quy định về trách nhiệm của một số bộ trong dự thảo Luật
Về khái niệm nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân (khoản 6 và khoản 7 Điều 2), UBTVQH nhận thấy, nếu quy định theo hướng nạn nhân là bất kỳ người nào là đối tượng của hành vi mua bán người thì sẽ rất khó chứng minh trên thực tế, không bảo đảm tính khả thi.

Vì vậy, việc xác định nạn nhân cần phải dựa trên tiêu chí cụ thể, như bị xâm hại bởi hành vi mua bán người và được cơ quan có thẩm quyền xác định. Đồng thời, dự thảo Luật cũng quy định rộng hơn so với yêu cầu của các điều ước quốc tế trong việc hỗ trợ cả người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. Do đó, đề nghị cho giữ như trong dự thảo Luật.

nghiem-cam-thoa-thuan-mua-ban-nguoi-tu-khi-con-la-bao-thai-2338-1729655749.jpg
Đề nghị giữ quy định về trách nhiệm của một số bộ trong dự thảo Luật. (Ảnh: quochoi.vn)

Liên quan đến đối tượng và chế độ hỗ trợ (Điều 37), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Điều 37 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân được hưởng các chế độ hỗ trợ như nạn nhân, trừ hỗ trợ học nghề, tư vấn việc làm, trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. Các chế độ hỗ trợ khác dành cho trẻ em (nếu có) thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về trẻ em.

Về trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp luật (Điều 42), UBTVQH nhận thấy, theo quy định của Luật hiện hành thì nạn nhân được trợ giúp pháp lý để làm thủ tục đăng ký cư trú, hộ tịch, nhận chế độ hỗ trợ, đòi bồi thường thiệt hại. Để bảo đảm mục tiêu lấy nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là trung tâm thì việc hỗ trợ cho họ sau khi tiếp nhận cần kịp thời, nhanh chóng và phải thực hiện ngay.

Do đó, khái niệm “hỗ trợ pháp luật” trong dự thảo Luật được hiểu là việc tư vấn để phòng ngừa bị mua bán trở lại, tư vấn làm thủ tục đăng ký cư trú, hộ tịch, làm căn cước, nhận chế độ hỗ và được thực hiện bởi Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi tiếp nhận. Đồng thời, Điều 42 của dự thảo Luật được tách thành 02 khoản quy định về trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp luật.

Liên quan đến quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan về phòng, chống mua bán người (Chương VI), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu rõ, tiếp thu ý kiến ĐBQH, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và thực hiện nguyên tắc của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề nghị bỏ Điều 56 (trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo), Điều 58 (trách nhiệm của Bộ Tài chính), Điều 59 (trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân).

Đối với trách nhiệm các bộ, ngành khác được quy định trong dự thảo Luật, UBTVQH cho rằng, trên cơ sở phân công nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ này đều có các chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong phòng, chống mua bán người nên đề nghị vẫn giữ quy định về trách nhiệm của các bộ này trong dự thảo Luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp này gồm 8 chương và 65 điều (giảm 01 điều so với dự thảo Luật trình Quốc hội, trong đó bỏ các điều 34, 56, 58, 59; bổ sung các điều 21, 40 và 64; sửa đổi 63 điều, giữ nguyên 02 điều).