Cần thiết xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, việc xây dựng dự án luật nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng an ninh và động viên công nghiệp trước mắt và lâu dài.

Xây dựng Luật nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển trước mắt và lâu dài

Trình bày Tờ trình về dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, Công nghiệp quốc phòng (CNQP), Công nghiệp an ninh (CNAN) và Động viên công nghiệp (ĐVCN) luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển; các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng được thể hiện trong các văn kiện chính trị.

bo-truong-giang-1-1699495888.jpg
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang trình bày Tờ trình về dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Ảnh: QH

Theo Đại tướng Phan Văn Giang, từ thực tiễn các cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới những năm gần đây, nhất là cuộc xung đột Nga - Ucraina đang diễn ra, dự báo chiến tranh trong tương lai và yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới đã đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải xây dựng tiềm lực công nghiệp QPAN tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng; thực hiện động viên công nghiệp rộng khắp để chủ động ngăn ngừa từ sớm, từ xa, đẩy lùi và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, đủ nội lực đánh bại mọi hình thức chiến tranh xâm lược, bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, mục đích xây dựng Luật là nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển CNQP, AN và ĐVCN trước mắt và lâu dài, bao gồm cả đảm bảo cơ chế, chính sách đặc thù cho những lĩnh vực đặc biệt quan trọng của CNQP, CNAN; phát huy vai trò chức năng, nhiệm vụ của CNQP, CNAN và ĐVCN trong đảm bảo vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức đổi mới, sắp xếp hệ thống cơ sở CNQP, cơ sở CNAN phù hợp đặc thù CNQP, CNAN, ĐVCN và gắn với phương thức tác chiến của Quân đội, nhiệm vụ của Công an, đáp ứng với kinh tế thị trường, hội nhập toàn cầu; bảo đảm tập trung, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về CNQP, CNAN và ĐVCN.

Đồng thời, huy động các thành phần kinh tế, doanh nghiệp ngoài lực lượng vũ trang nhân dân có tiềm lực về tài chính, KHCN tham gia đầu tư phát triển CNQP, AN và thực hiện nhiệm vụ ĐVCN, tham gia sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế...

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, dự thảo Luật CNQP, AN và ĐVCN có bố cục gồm 07 chương và 73 điều. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật CNQP, AN và ĐVCN tập trung vào 05 chính sách nổi bật gồm: Phát triển CNQP, CNAN theo hướng lưỡng dụng, bảo đảm sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động CNQP, CNAN; Hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức CNQP, CNAN; Thúc đẩy hoạt động Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển CNQP, CNAN; Huy động nguồn lực cho phát triển CNQP, CNAN; Bảo đảm hiệu quả hoạt động ĐVCN...

Làm rõ "nguồn vốn hợp pháp khác" trong phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh

Báo cáo thẩm tra dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, UBQPAN nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (CNQPAN và ĐVCN) như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển CNQPAN và ĐVCN.

Đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập sau 15 năm thực hiện Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng (CNQP), 20 năm thực hiện Pháp lệnh ĐVCN và thực tiễn phát triển công nghiệp an ninh (CNAN) từ Đại hội Đảng lần thứ XI đến nay; nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, khả thi, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

tham-tra-bqp-811-1699495979.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Ảnh: QH

Bên cạnh đó, UBQPAN đề nghị cơ quan soạn thảo dự án Luật tiếp tục rà soát, đánh giá, đầy đủ, toàn diện hơn các căn cứ về chính trị, pháp lý, thực tiễn; làm rõ mối quan hệ gắn kết giữa CNQP, CNAN và ĐVCN; đặt CNQPAN, ĐVCN trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia và cả nền kinh tế, trước yêu cầu xây dựng, tăng cường tiềm lực QPAN của đất nước để đánh giá toàn diện, làm rõ hơn về sự cần thiết ban hành Luật.

UBQPAN thấy rằng, hồ sơ dự án Luật đã được Chính phủ trình cơ bản đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhiều nội dung được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, đủ điều kiện báo cáo Quốc hội xem xét, cho ý kiến, nhưng cần nghiên cứu, tiếp tục rà soát, bổ sung đầy đủ dự thảo văn bản quy định chi tiết, đánh giá thêm tác động về chi phí, ngân sách để bảo đảm tính khả thi.

Về quy hoạch xây dựng và phát triển CNQP, CNAN, UBQPAN nhận thấy, quy hoạch xây dựng và phát triển CNQP, CNAN là nội dung quan trọng để định hướng cho mục tiêu xây dựng và phát triển nền CNQPAN vững mạnh, tự lực, tự cường, đặt trong tổng thể chiến lược công nghiệp quốc gia. Tuy nhiên, đề nghị rà soát, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và tính khả thi; nghiên cứu bổ sung quy định về điều chỉnh quy hoạch tại Điều 9 cho phù hợp với khoản 4 Điều 6 dự thảo Luật.

Về bảo đảm nguồn lực cho CNQPAN, UBQPAN cơ bản nhất trí với dự thảo Luật quy định nguồn lực tài chính cho phát triển CNQPAN do NSNN bảo đảm và trong điều kiện NSNN còn khó khăn thì việc huy động các nguồn hợp pháp khác như từ các quỹ, nguồn vay, tài trợ, trích lập sau thuế là phù hợp. Đây sẽ là nền tảng vật chất quan trọng để bảo đảm cho CNQPAN song Chính phủ dự kiến sẽ không quy định về “Nguồn vốn chuyên biệt” mà thay bằng “nguồn vốn hợp pháp khác”. Đây là vấn đề mới, việc triển khai phải gắn với chế độ bảo mật, do đó, đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để phù hợp với thực tiễn và thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Về chế độ chính sách trong CNQPAN và ĐVCN, UBQPAN nhận thấy, việc phân loại các chế độ, chính sách theo từng đối tượng, nhóm đối tượng là hợp lý. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, các chế độ, chính sách còn tản mạn, thiếu tính khái quát. Đồng thời, các quy định liên quan đến các luật như: Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân, Luật An ninh Quốc gia… Vì vậy, đề nghị nghiên cứu chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định chi tiết.

Về chế độ, chính sách đối với chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư trong lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt, UBQPAN đề nghị nghiên cứu, quy định cụ thể, minh bạch hơn về chế độ, chính sách đối với các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng, phát triển CNQPAN và ĐVCN, bảo đảm thống nhất với Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp và bảo đảm tính khả thi.

Về trách nhiệm quản lý nhà nước về CNQPAN và ĐVCN, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết, UBQPAN đề nghị rà soát lại quy định trách nhiệm của các Bộ cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và chỉ quy định trách nhiệm của một số bộ có tính chất đặc thù về CNQPAN và ĐVCN; đồng thời, đề nghị nghiên cứu hình thành mô hình Cơ quan quản lý nhà nước để điều phối hoạt động CNQPAN, thúc đẩy sự gắn kết giữa CNQPAN với công nghiệp quốc gia./.