Khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam trong xử lý tội gây rối trật tự công cộng

Trên cơ sở làm rõ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam trong xử lý tội gây rối trật tự công cộng của các cơ quan có thẩm quyền, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật và chú ý trong áp dụng pháp luật.

Tóm tắt: Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm gây rối trật tự công cộng (GRTTCC) diễn biến rất phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở làm rõ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam trong xử lý tội gây rối trật tự công cộng của các cơ quan có thẩm quyền, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật và chú ý trong áp dụng pháp luật.

Từ khóa: gây rối, an ninh, trật tự công cộng, an toàn xã hội

Abstract: In recent years, the situation of public order disturbances has become increasingly complex, adversely affecting security, public order, and social safety. Based on the analysis of the challenges and obstacles encountered in the practical application of Vietnamese legal provisions by competent authorities in handling public order disturbance offenses, the author proposes several recommendations for amending and supplementing legal regulations as well as emphasizing key considerations in law enforcement.

Keywords: disturbances, security, public order, social safety

1. Một số khó khăn, vướng mắc

Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc trong áp dụng tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.

“Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự; an toàn xã hội” là tình tiết cấu thành tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 318, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (được thay bằng BLHS năm 2015). Chỉ người nào có hành vi GRTTCC mà “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh; trật tự, an toàn xã hội” thì mới phạm tội GRTTCC, trừ trường hợp người đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Trước đây, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (được thay bằng BLHS năm 1999) quy định tình tiết định tội GRTTCC phải “gây hậu quả nghiêm trọng”, đến Bộ luật hình sự năm 2015 tình tiết này đã được sửa đổi thành “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.Trong thực tiễn, việc nhận thức như thế nào là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh; trật tự, an toàn xã hội” còn có nhiều quan điểm khác nhau, điều này gây khó khăn cho các cơ quan tư pháp trong điều tra truy tố, xét xử các vụ án hình sự về tội GRTTCC.

Về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, BLHS năm 1999 đã có hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, theo đó tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” của tội GRTTCC trong BLHS năm 1999 bao gồm cả hậu quả về vật chất và hậu quả phi vật chất[1].

Hiện nay do chưa có văn bản nào bãi bỏ Nghị quyết số 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên khi xử lý tội GRTTCC về tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” cơ quan có thẩm quyền vẫn tham khảo tiểu mục 5.1 của Nghị quyết 02/2003 hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 245 BLHS năm 1999 để giải quyết là chưa phù hợp.

Tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được quy định là tình tiết định khung cơ bản, định khung tăng nặng khoản 2, khoản 3 của một số điều của BLHS năm 2015. Theo khoản 4, Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại khoản 3 các điều 353, 355 của BLHS là xâm phạm tới hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và uy tín của chính quyền, Đảng, Nhà nước, không đề cập đến hậu quả vật chất.

Tại Công văn số 1120/VKSTC-V14 ngày 28/3/2023 tổng hợp, giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp trong 03 năm (năm 2020 - 2022), tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong các vụ án về tội phạm xâm phạm sở hữu là hậu quả của hành vi xâm phạm sở hữu mà người phạm tội thực hiện dẫn đến phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội một cách nghiêm trọng khiến cho một bộ phận không nhỏ người dân mất niềm tin, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

Một số tác giả cũng có quan điểm cho rằng tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong BLHS năm 2015 là mức độ hậu quả do tội phạm gây ra, là hậu quả phi vật chất[2].

Như vậy, thực tế đã có các hướng dẫn từ cơ quan có thẩm quyền đối với một số tội phạm về sở hữu, về tội phạm chức vụ nhưng đối với tội GRTTCC thì vẫn chưa có, điều này dẫn tới việc đánh giá, áp dụng mang tính tùy nghi, nhiều trường hợp do điều kiện, khả năng về kinh tế, xã hội, văn hóa của từng địa phương có sự chênh lệch nên đánh giá “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là khác nhau.

Theo quan điểm của tác giả thì tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” là 02 tình tiết khác nhau, mặc dù chúng đều thể hiện dấu hiệu hậu quả của tội phạm, có tính chất, mức độ nguy hiểm đáng kể của tội phạm. Về mặt thuật ngữ, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” nặng hơn, mở rộng hơn so với tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1, Điều 245 BLHS năm 1999, vì chỉ cần hành vi GRTTCC “gây ảnh hưởng xấu” là đã cấu thành tội phạm chứ không nhất thiết phải “gây hậu quả nghiêm trọng”.[3]

Tác giả đồng ý với hướng dẫn của các cơ quan tư pháp tại Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; Công văn số 1120/VKSTC-V14 ngày 28/3/2023 tổng hợp, giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp trong 03 năm (năm 2020 - 2022) khi xác định tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”là mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra, là hậu quả phi vật chất và phát sinh trực tiếp từ hành vi GRTTCC.

Nếu theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về “gây hậu quả nghiêm trọng” thì rất khó phân tách với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội phạm này. Mặt khác, chúng ta phải căn cứ vào nội hàm “an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được hiểu là trạng thái xã hội có trật tự, kỉ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định, vì vậy bản chất hành vi GRTTCC phá vỡ giá trị phi vật chất nói trên chứ không phải đơn thuần là hậu quả vật chất.

Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi thành tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là phù hợp với đặc điểm, tính chất, cơ chế hình thành hành vi phạm tội GRTTCC, nhằm đảm bảo phù hợp với khách thể của tội phạm là trật tự công cộng, an toàn công cộng, quy tắc xã hội, tạo thuận lợi khi áp dụng quy định pháp luật hình sự xử lý hành vi GRTTCC trong các bối cảnh, điều kiện, địa bàn công cộng khác nhau, đặc biệt một số trường hợp đối tượng có hành vi GRTTCC nhưng rất khó chứng minh “hậu quả nghiêm trọng”.

Hiện nay BLHS năm 2015 chưa quy định rõ hành vi GRTTCC bị xử lý về hình sự có bao gồm hành vi GRTTCC có tính chất “làm ô uế các công trình, thiết bị…” là hành vi GRTTCC “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, trong khi thực tiễn xử lý của các cơ quan có thẩm quyền mới chỉ tập trung nhận diện hành vi GRTTCC liên quan tới hành vi làm mất trật tự, gây náo loạn, hành hung người khác, phá phách…đòi hỏi phải có hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng.

Thứ hai, khó khăn, vướng mắc trong áp dụng tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” và tình tiết “xử lý hành chính”.

Trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý tội GRTTCC, các chủ thể có thẩm quyền thường có sự nhầm lẫn giữa tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi GRTTCC mà còn vi phạm” quy định tại khoản 1, Điều 318, BLHS năm 2015 với tình tiết đã bị “xử lý hành chính” về hành vi GRTTCC mà còn vi phạm trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020, dẫn tới việc xác định dấu hiệu nhân thân của người vi phạm làm căn cứ đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đến mức truy cứu TNHS rất khó khăn, xem xét thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính để áp dụng các biện pháp pháp luật tiếp theo nhằm ngăn chặn, xử lý hành vi GRTTCC bị hạn chế.

“Xử phạt vi phạm hành chính” và “xử lý hành chính” là hai thuật ngữ có đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng khác nhau. Cụ thể: (1) Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính[4]; (2) Xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc[5].

Tình tiết “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm về hành vi này” đã được hướng dẫn tại Mục 6 Nghị quyết 01/2006/NQ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao. Tình tiết này trong tội GRTTCC được hiểu là trước đó người này đã bị xử phạt hành chính về hành vi GRTTCC, chưa “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” mà còn vi phạm và người vi phạm sẽ bị áp dụng các hình thức xử phạt như cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu phương tiện, tang vật vi phạm hành chính, trục xuất.

Trường hợp người có hành vi GRTTCC đã bị “xử lý hành chính” sẽ không bị áp dụng các hình thức xử phạt trên mà áp dụng biện pháp xử lý hành chính như giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp người chưa thành niên có hành vi GRTTCC (dùng xe mô tô, dùng hung khí GRTTCC) cần thiết phải áp dụng hình phạt tịch thu phương tiện, tuy nhiên do điều kiện áp dụng chỉ bị “xử lý hành chính” nên không thể áp dụng hình thức xử phạt là tịch thu phương tiện nên hiệu quả ngăn chặn, phòng ngừa chưa cao, các đối tượng vẫn tiếp tục vi phạm GRTTCC.

Các thuật ngữ như “xử phạt vi phạm hành chính”, “vi phạm hành chính”, “xử lý hành chính”, “vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự” còn được hiểu không thống nhất về phạm vi, điều kiện áp dụng; chưa phân biệt rõ “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này còn vi phạm” với “vi phạm hành chính nhiều lần” về hành vi GRTTCC hay “tái phạm” về hành vi GRTTCC trong Luật xử phạt vi phạm hành chính với điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” cũng là một trong những tồn tại, hạn chế cần phải có sự điều chỉnh, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

Thứ ba, khó khăn, vướng mắc trong áp dụng một số tình tiết định khung tăng nặng của tội GRTTCC.

Một là, về tình tiết “xúi giục người khác gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 318 BLHS năm 2015, quá trình xử lý các cơ quan có thẩm quyền còn gặp khó khăn trong phân định tính chất, mức độ nguy hiểm với tình tiết “tổ chức thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Có quan điểm cho rằng cần phải hình sự hóa đầy đủ các hành vi như điểm a, khoản 4, Điều 7 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 vào quy định của BLHS.

Theo tác giả, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có sự phân định rất rõ tính chất của tình tiết định khung tăng nặng TNHS với tính chất của tình tiết bị xử phạt hành chính. Mặt khác, thực tiễn phòng, chống tội GRTTCC cho thấy chúng ta chỉ có thể hình sự hóa và truy cứu ở khung tăng nặng với hành vi “xúi giục người khác gây rối” vì hành vi thể hiện rõ tính chất đồng phạm, trường hợp người có hành vi “lôi kéo, kích động GRTTCC” như đăng tải các thông tin về hành vi GRTTCC của người khác mà không trực tiếp tham gia cùng, hoặc các đối tượng có hành vi GRTTCC theo tâm lý “lây lan” trong khi không thỏa mãn điều kiện đồng phạm về tội GRTTCC thì không thể áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS tội GRTTCC.

Do hành vi “tổ chức thuê” người khác để thực hiện hành vi GRTTCC chưa được hình sự hóa trong tội GRTTCC nên thực tiễn cũng không có cơ sở xử lý hình sự hành vi này là tình tiết định khung tăng nặng TNHS. Vì vậy, cần hình sự hóa hành vi “tổ chức thuê” người khác thực hiện hành vi GRTTCC mà gây hậu quả nghiêm trọng là tình tiết định khung tăng nặng TNHS.

Hai là, về tình tiết “dùng vũ khí, hung khí” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015. Hiện nay, chúng ta đã có văn bản hướng dẫn về “vũ khí” theo Luật quản lý, sử dụng, vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024, Nghị định 149/2024/NĐ-CP ngày 15/11/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ trong đó có quy định “dao có tính sát thương cao gắn với mục đích sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, gây rối, làm mất trật tự công cộng hoặc chống đối cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, người thi hành công vụ là vũ khí thô sơ”[6] đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải có hướng dẫn thống nhất trong áp dụng.

Qua nghiên cứu BLHS năm 2015 cho thấy tình tiết “dùng hung khí” được quy định duy nhất là tình tiết định khung tăng nặng của tội GRTTCC. “Dùng hung khí nguy hiểm” và “dùng hung khí” là 02 thuật ngữ hoàn toàn khác nhau nên không thể sử dụng hướng dẫn “hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/04/2003 của HĐTP TAND tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn một số quy định tại BLHS năm 1999: “3.1. Tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS” để giải thích cho thuật ngữ “dùng hung khí” tại Tội GRTTCC.

Việc quy định tình tiết tăng nặng “dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” tại cùng điểm b, khoản 2, Điều 318 BLHS năm 2015 cũng gây nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các đối tượng phạm tội trong trường hợp người phạm tội có hành vi GRTTCC mà dùng vũ khí, hung khí nhưng không có hành vi phá phách hoặc trường hợp người phạm tội có cả 02 hành vi. Bên cạnh đó, xác định “có hành vi phá phách” cũng khó khăn do chưa được hướng dẫn. Ví dụ, trong quá trình đuổi đánh nhau, A hò hét, gây náo động, chạy lên vỉa hè bê một chậu hoa bằng nhựa cứng ném trúng vào B.

Quan điểm thứ nhất: Trong vụ án này, chỉ cần truy tố, xét xử bị cáo A với tình tiết định khung hình phạt dùng “hung khí” theo điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015.

Quan điểm thứ hai: Ngoài việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt dùng “hung khí” cần áp dụng cả tình tiết định khung hình phạt “có hành vi phá phách” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS năm 2015 mới phản ánh đúng bản chất hành vi phạm tội của A.

Quan điểm của tác giả: Mặc dù chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng tình tiết “có hành vi phá phách”. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự đều thừa nhận “có hành vi phá phách” là trường hợp trong khi thực hiện hành vi gây rối, người phạm tội đã có hành vi đập phá tài sản nhưng thiệt hại về tài sản chưa đến mức cấu thành tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác”, vì vậy A sẽ bị áp dụng cả tình tiết “dùng hung khí và có hành vi phá phách” chứ không thể quy định là “Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” như điểm b, khoản 2, Điều 318 BLHS năm 2015.

Đối với tình tiết “gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng” quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 318 BLHS năm 2015 chúng ta mới có hướng dẫn về tình tiết “gây cản trở giao thông nghiêm trọng” được hướng dẫn tại điểm 5.2. của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 còn tình tiết “gây đình trệ hoạt động công cộng” chưa được hướng dẫn cụ thể, kết quả là khó khăn trong áp dụng là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.

Thứ tư, khó khăn, vướng mắc trong xác định địa điểm công cộng và xử lý hành vi GRTTCC trên không gian mạng.

Các văn bản như Luật xử phạt vi phạm hành chính, Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012; Nghị định 24/2020/NĐ-CP ngày 24/2/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định nơi công cộng là địa điểm thực như nơi biểu diễn, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, thương mại, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư hoặc ở những nơi công cộng khác. Tuy nhiên, Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ về ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng đã xác định: “Hoạt động Karaoke là dịch vụ văn hóa công cộng, địa điểm có thể là nơi công cộng hoặc khu vực sở hữu tư nhân”. Như vậy, khái niệm nơi công cộng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn tới cách hiểu không thống nhất trong xử lý hành vi GRTTCC.

Hay như pháp luật Việt Nam chưa có quy định trật tự công cộng trên không gian mạng. Hiện nay, theo cách tiếp cận truyền thống thì địa điểm công cộng, trật tự công cộng thường được xác định là môi trường thực nhưng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, nhiều quốc gia đã xác lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, thừa nhận quyền công dân của người máy, thừa nhận và ban hành cơ sở pháp lý về tiền số thì yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu, quy định “trật tự công cộng trên không gian mạng” bị xâm phạm bởi hành vi GRTTCC. Thực tế có nhiều hành vi đăng tải thông tin, hình ảnh mang tính chất cổ vũ, lôi kéo, kích động GRTTCC trên không gian mạng cơ quan áp dụng còn khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh và chủ yếu áp dụng biện pháp ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin GRTTCC nhằm bảo vệ an ninh mạng.[7]

Thứ sáu, khó khăn trong phân định ranh giới hành vi GRTTCC là vi phạm hành chính với hành vi GRTTCC bị xử lý hình sự khi chứng minh (1) hành vi “mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác” bị xử phạt hành chính với hành vi “Dùng vũ khí, hung khí” quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 318 BLHS; (2) Khó khăn trong đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi “gây rối trật tự” và hành vi “gây mất trật tự” tại các điểm a, khoản 1 Điều 7; điểm a khoản 2 Điều 7; điểm b khoản 2 Điều 7; điểm a khoản 4 Điều 7; điểm b khoản 4 Điều 7; điểm b khoản 5 Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CPngày 31/12/2021.

Thứ bảykhó khăn trong áp dụng quy định pháp luật về xử lý đồng phạm của tội GRTTCC.

Nghiên cứu các vụ việc về GRTTC cho thấy ngoài những đối tượng trực tiếp chuẩn bị vũ khí, hung khí, trực tiếp gây huyên náo trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự thì còn những đối tượng theo tâm lý “lây lan”, tham gia đột xuất vào việc GRTTCC. Cho nên việc phân tách, đánh giá có sự “tiếp nhận ý chí” xử lý về đồng phạm tội GRTTCC hay xử lý về hành vi phạm tội GRTTCC riêng lẻ đặt ra thách thức với cơ quan áp dụng pháp luật.

Để làm rõ vấn đề đồng phạm về hành vi GRTTCC, cần phân biệt tình tiết này được xem xét là tình tiết bị xử phạt hành chính, tình tiết định tội hay tình tiết định khung hình phạt của tội GRTTCC. Dưới góc độ đồng phạm những người có tính chất lôi kéo, kích động và tham gia cùng thực hiện hành vi GRTTCC, biết nhau…thì mới xử lý về đồng phạm. Trường hợp các đối tượng không biết nhau, theo tính chất bầy đàn, ùa theo, lên tiếng hưởng ứng hỗn chiến (chưa đánh nhau) thông qua la hét, cổ vũ, mà không liên quan trực tiếp đến hành vi gây rối của người thực hành thì không phải là người xúi giục người khác gây rối trong đồng phạm.

Như vậy, ở tình tiết xử phạt hành chính thì có thể quy định đầy đủ là hành vi “xúi giục, lôi kéo, kích động người khác gây rối, làm mất trật tự” và là tình tiết định tội tại khoản 1, Điều 318, BLHS năm 2015. Riêng tình tiết tăng nặng định khung hình phạt thì chỉ quy định và phân hóa trách nhiệm hình sự là “người có hành vi xúi giục”.

Vấn đề đồng phạm trong trường hợp người có hành vi GRTTCC có dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm cũng đặt ra nhiều khó khăn khi phân định (1) tình tiết hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng trong tội GRTTCC với hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ; (2) Hành vi kích động, lôi kéo, tụ tập đông người gây rối trật tự công cộng với hành vi kích động, lôi kéo, tu tập đông người phá rối an ninh của tội phá rối an ninh; (3) Hành vi GRTTCC của tội GRTTCC hay hành vi của tội đua xe trái phép.

Nhiều vụ việc GRTTCC cơ quan có thẩm quyền khó khăn khi xác định đồng phạm với hành vi GRTTCC có hậu quả gây thương tích; chết người, hủy hoại tài sản, hành vi cướp tài sản cấu thành nên các tội phạm độc lập hay xử lý thu hút về tội GRTTCC hay xử lý về tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm hơn.

Ví dụ 1: Thông báo số 202/TB-VKSTC ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kinh nghiệm vụ án hình sự Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại khi cho rằng Tòa án phúc thẩm nhận định hành vi gây rối trật tự nơi công cộng của bị cáo Trần Tấn Phúc đã thu hút vào các tội “giết người” và “cố ý gây thương tích”, sửa Bản án hình sự sơ thẩm tuyên Trần Tấn Phúc không phạm tội GRTCC là không có căn cứ, vì Trần Tấn Phúc đã có hành vi xâm phạm các khách thể khác nhau.

Ví dụ 2: Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2019/HSST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã xét xử bị cáo Đỗ Đăng H về tội “giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự và xét xử bị cáo Đặng Mậu T1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 khi cho rằng bị cáo T1 tiếp nhận ý chí của người bị hại Nguyễn Văn T2 về việc chuẩn bị công cụ phương tiện là các viên gạch 06 lỗ ném vào người bị cáo H. Nếu không có hành vi ngăn cản kịp thời của Nguyễn Đình T4 thì bị cáo đã tham gia cùng người bị hại đánh bị cáo H. Do đó, hành vi của bị cáo bị xét xử về tội “gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 và xử phạt bị cáo 24 (hai bốn) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

Thực tế có sự nhầm lẫn khi cho rằng, các đối tượng cùng một nhóm tham gia đánh nhau với nhóm khác, đối tượng sử dụng hung khí gây thương tích (khoản 1, Điều 134) lại chịu trách hiệm hình sự nhẹ hơn đối tượng sử dụng hung khí gây rối trật tự (khoản 2, Điều 318) và nếu người bị hại rút đơn thì người phạm tội được đình chỉ điều tra (khoản 1 Điều 134 BLTTHS), còn khoản 2 Điều 318 chỉ được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Theo tác giả, khách thể của tội phạm được quy định tại Điều 134 và Điều 318 là khác nhau, do vậy BLTTHS quy định về khởi tố theo yêu cầu của bị hại về tội phạm Điều 134 là hoàn toàn hợp lý. Hành vi “dùng hung khí” quy định tại Khoản 2, Điều 318 BLHS là tình tiết tăng nặng định khung của riêng tội GRTTCC khi hành vi đó gắn với hành vi GRTTCC, xâm hại tới khách thể là trật tự công cộng. Nếu trường hợp “dùng hung khí” gây rối trật tự công cộng mà gây thương tích sẽ khởi tố thêm về Điều 134, BLHS mà không coi nó là tình tiết tăng nặng định khung của khoản 2, Điều 318, BLHS năm 2015.

Trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu xử lý với hành vi GRTTCC mà có tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng hung khí” không thuộc trường hợp theo quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2022; không thuộc tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 1, Điều 51 BLHS năm 2015, việc coi nó là tình tiết giảm nhẹ truy cứu TNHS hay không có thể nghiên cứu xem xét theo khoản 2, Điều 51 BLHS năm 2015.

Tóm lại, trường hợp hành vi GRTTCC có dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm cần xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi GRTTCC, xem xét hành vi được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian; hành vi này là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi kia, mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, đánh giá hành vi khách quan đặc trưng, gắn với địa điểm, gắn với hoàn cảnh thực hiện, gắn với mục đích phạm tội cụ thể, khách thể trực tiếp của tội phạm… sẽ thu hút về tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cao hơn hay cấu thành tội phạm độc lập tương ứng.

Thứ tám, chưa thống nhất trong áp dụng chính sách hình sự xử lý tội GRTTCC với một số đối tượng phạm tội.

Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 318 BLHS sẽ bị xử phạt tối thiểu là 02 năm tù, tối đa 07 năm tù. Theo quan điểm của tác giả, khoảng cách hình phạt này là chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng pháp luật mang tính tùy nghi không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại các địa phương là khác nhau.

2. Một số kiến nghị, đề xuất

Một là, liên ngành tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn về các vấn đề sau:

- Thống nhất hướng dẫn tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự; an toàn xã hội” theo khoản 4, Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; Công văn số 1120/VKSTC-V14 ngày 28/3/2023 tổng hợp, giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp trong 03 năm (năm 2020 - 2022) khi xác định tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra, là hậu quả phi vật chất và phát sinh trực tiếp từ hành vi GRTTCC.

- Thống nhất hướng dẫn áp dụng tình tiết “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm về hành vi này” theo hướng dẫn tại Mục 6 Nghị quyết 01/2006/NQ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao, chỉnh sửa để phân biệt với đã bị “xử lý hành chính” để áp dụng hình phạt tịch thu phương tiện trong trường hợp người chưa thành niên có hành vi GRTTCC; phân biệt giữa “xử phạt vi phạm hành chính”, “vi phạm hành chính”, “xử lý hành chính”, “vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự”, “vi phạm hành chính nhiều lần” về hành vi GRTTCC hay “tái phạm” về hành vi GRTTCC trong Luật xử phạt vi phạm hành chính với điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.

- Hướng dẫn tình tiết “có hành vi phá phách” là trường hợp trong khi thực hiện hành vi gây rối, người phạm tội đã có hành vi đập phá tài sản nhưng thiệt hại về tài sản chưa đến mức cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác”.

- Hướng dẫn tình tiết “Gây cản trở giao thông nghiêm trọng” là trường hợp gây cản trở giao thông từ 2 giờ trở lên hoặc gây cản trở giao thông ở những tuyến giao thông quan trọng, làm ách tắc giao thông trên diện rộng (không phân biệt thời gian bao lâu) theo điểm 5.2 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS” của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

- Hướng dẫn tình tiết “gây đình trệ hoạt động công cộng” là trường hợp do hành vi gây rối mà hoạt động công cộng bị đình trệ, tạm dừng hoạt động không phân biệt thời gian đình trệ dài hay ngắn.

- Hướng dẫn tình tiết “xúi giục người khác gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 318 BLHS năm 2015 là hành vi lôi kéo, kích động, dụ dỗ người khác gây rối biểu hiện ở việc người bị phạm tội tác động, chi phối, thuyết phục người khác gây rối cùng với mình. Tuy nhiên, cần lưu ý: Người phạm tội bị áp dụng tình tiết này khi có hành vi xúi giục người khác gây rối nhưng không phải là trường hợp phạm tội có tổ chức với vai trò là người xúi giục trong vụ án có đồng phạm. Nếu việc xúi giục của người phạm tội không liên quan trực tiếp và chi phối hành vi gây rối thì không phải là hành vi xúi giục người khác gây rối.

- Hướng dẫn tình tiết “Hành hung người can thiệp bảo vệ TTCC” là hành hung với người đã ngăn chặn hành vi gây rối như đánh lại người đã can ngăn, khuyên bảo, giải thích góp ý… hoặc vì họ đã có hành động nào đó không cho người phạm tội gây rối để bảo vệ TTCC.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý: Người can thiệp, bảo vệ TTCC có thể là bất kỳ người nào. (1) Nếu người can thiệp là người đang thi hành công vụ mà người phạm tội có hành vi chống lại người đang làm nhiệm vụ bảo vệ TTCC nhằm mục đích cản trở người thi hành công vụ hoặc ép buộc họ thực thi hành vi trái pháp luật thì xử lý về tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 BLHS); (2) Nếu người can thiệp là người đang thi hành công vụ mà người phạm tội có hành vi chống lại và gây thương tích hoặc chết người, người đang làm nhiệm vụ bảo vệ TTCC thì sẽ cấu thành các tội phạm tương ứng.

- Hướng dẫn trong xử lý hành vi “dùng vũ khí” theo tinh thần của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 khi quy định “dao có tính sát thương cao gắn với mục đích sử dụng để thực hiện hành vi GRTTCC, làm mất trật tự công cộng” là vũ khí thô sơ; hướng dẫn về tình tiết “dùng hung khí” khác với tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”.

- Hướng dẫn, giải thích rõ thuật ngữ “nơi công cộng” là những khu vực sinh hoạt chung của xã hội, cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức diễn ra thường xuyên hoặc không thường xuyên mà mọi người đều có quyền tiếp cận, sử dụng.

- Hướng dẫn hành vi GRTTCC gắn với cách thức thực hiện hành vi GRTTCC khác như đưa tin đồn, thông tin sai sự thật, phá rối hoạt động của cơ quan nhà nước, các số điện thoại khẩn cấp, quấy rối, xâm hại tình dục tại nơi công cộng, xâm hại môi trường công cộng; nhóm hành vi GRTTCC gây hậu quả về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm người khác hoặc làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, hoạt động công cộng;

- Hướng dẫn về chính sách xử lý tội GRTTCC căn cứ vào quy mô, hậu quả của hành vi GRTTCC, phạm vi ảnh hưởng xấu trên không gian địa bàn rộng, hẹp như thế nào, đối tượng gây ảnh hưởng xấu ra sao.

- Hướng dẫn trong xử lý đồng phạm tội GRTTCC có sự phân tách, đánh giá có sự “tiếp nhận ý chí” xử lý về đồng phạm tội GRTTCC hay xử lý về hành vi phạm tội GRTTCC.

Hai là, sửa đổi, bổ sung tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của tội GRTTCC

- Quy định hành vi “tổ chức thuê người khác gây rối”, “sử dụng phương tiện bay, sử dụng phương tiện điện tử, trí tuệ nhân tạo”, “người có khả năng ảnh hưởng lớn đối với cộng đồng” có hành vi phạm tội GRTTCC là tình tiết định khung tăng nặng của tội GRTTCC.

- Tách các tình tiết như “dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách” quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 318 và tình tiết “gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng” thành các tình tiết được quy định độc lập.

Ba là, quy định tăng mức tiền xử phạt vi phạm hành chính, xử lý hình xử đối với hành vi GRTTCC; quy định chặt chẽ trình tự thu thập, tiếp nhận đối với tình hình, phản ánh của nhân dân về các hành vi gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội khi chưa bị phát hiện làm căn cứ để xử lý.

Bốn là, nghiên cứu ban hành án lệ về tội GRTTCC để hướng dẫn cụ thể các tình tiết định tội, định khung tăng nặng và xử lý các trường hợp hành vi GRTTCC có dấu hiệu của nhiều tội phạm.

Năm là, sửa đổi, quy định về thẩm quyền xử phạt và mức tiền phạt trong lực lượng Công an nhân dân cho phù hợp với các văn bản xử phạt vi phạm hành chính hiện hành, đặc biệt là thẩm quyền của Công an cấp xã để nâng hiệu quả răn đe, phòng ngừa hành vi gây rối trật tự công cộng từ cơ sở.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật xử lý vi phạm hành chính (Văn bản hợp nhất số 31/VBHN-VPQH ngày 07/12/2020).

2. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009).

3. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH ngày 10/07/2017).

4. Luật An ninh mạng năm 2018 (Luật số 24/2018/QH14 ngày 12/06/2018).

5. Luật quản lý, sử dụng, vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024,

6. Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012.

7. Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2019/HSST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

8. Bản án 252/2019/HS-ST ngày 13/06/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An về tội gây rối trật tự công cộng.

9. Công văn số 1120/VKSTC-V14 ngày 28/3/2023 tổng hợp, giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp trong 03 năm (năm 2020 - 2022).

10. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

11. Nghị quyết 01/2006/NQ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao.

12. Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại khoản 3 các điều 353, 355 của BLHS.

13. Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ về ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng.

14. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.

15. Nghị định 24/2020/NĐ-CP ngày 24/2/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia.

16. Nghị định 149/2024/NĐ-CP ngày 15/11/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

17. Thông báo số 202/TB-VKSTC ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kinh nghiệm vụ án hình sự Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự phúc thẩm.

18. Đặng Khắc Thắng, Bàn về tình tiết gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tội gây rối trật tự công cộng, Tạp chí Toà án (20-6-2019), https://tapchitoaan.vn/ban-ve-tinh-tiet-gay-anh-huong-xau-den-an-ninh-trat-tu-an-toan-xa-hoi-trong-toi-gay-roi-trat-tu-cong-cong, truy cập ngày 7/1/2025.

* Ths Phạm Công Tùng, Khoa Luật - Học viện An ninh nhân dân

[1] Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự

[2] Đặng Khắc Thắng, Bàn về tình tiết gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong tội gây rối trật tự công cộng, Tạp chí Toà án (20-6-2019), https://tapchitoaan.vn/ban-ve-tinh-tiet-gay-anh-huong-xau-den-an-ninh-trat-tu-an-toan-xa-hoi-trong-toi-gay-roi-trat-tu-cong-cong

Áp dụng tình tiết gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo Bộ luật hình sự năm 2015, (30-05-2016),https://vienkiemsat.haiduong.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/ap-dung-tinh-tiet-gay-anh-huong-xau-den-an-ninh-trat-tu-an-toan-xa-hoi-theo-bo-luat-hinh-su-nam-2015-1171.html

[3] Bản án 252/2019/HS-ST ngày 13/06/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An về tội gây rối trật tự công cộng.“Người phạm tội có hành vi đốt pháo nổ ném ra đường gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn giao thông”

[4] Khoản 2, Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020

[5] Khoản 3, Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020

[6] Điểm b, khoản 4, Điều 2 Luật quản lý, sử dụng, vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024

[7] Điều 5, Điều 16 Luật An ninh mạng năm 2018