Sửa Luật Các tổ chức tín dụng: Siết tỷ lệ sở hữu vẫn khó chặn thao túng

Xoay quanh vấn đề ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, góp ý Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), nhiều ý kiến cho rằng, đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu tối đa vẫn khó ngăn chặn thao túng…

Theo đó, nhằm ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, tránh thao túng hoạt động ngân hàng, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân, tổ chức từ mức 5% và 15% vốn điều lệ của một ngân hàng xuống còn 3% và 10%. Tương tự, tỷ lệ sở hữu của nhóm cổ đông và người liên quan cũng được đề xuất giảm từ 20% xuống 15%.

sua-luat-cac-to-chuc-tin-dung-23-5-1-2-1702388912.jpg

Nhằm ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo, tránh thao túng hoạt động ngân hàng, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu ngân hàng – Ảnh minh họa: ITN

Đồng tình với việc cần kiểm soát sở hữu chéo, tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc giảm tỷ lệ sở hữu theo đề xuất của Dự thảo Luật (sửa đổi) không thực sự có nhiều ý nghĩa, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng nội.

Theo Luật sư Trương Thanh Đức – Giám đốc công ty Luật ANVI, giảm tỷ lệ sở hữu không thực sự ngăn chặn sở hữu chéo, khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15-20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó. Trên thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy tỷ lệ sở hữu thực sự của những người chủ này cao hơn rất rất nhiều so với quy định, thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên hộ.

Thực tế, như trường hợp vụ việc của Ngân hàng SCB mới đây, kết luận của Cơ quan điều tra Bộ Công an cho thấy, trên sổ sách, bà Trương Mỹ Lan chỉ nắm giữ 4,98% vốn điều lệ ngân hàng, nhưng thực tế bà Lan nắm giữ tới 91% cổ phần của SCB thông qua 27 pháp nhân và cá nhân đứng tên hộ.

sua-luat-cac-to-chuc-tin-dung-23-5-1-1-1702388912.jpg

Nhiều ý kiến cho rằng, việc giảm tỷ lệ sở hữu theo đề xuất của Dự thảo Luật (sửa đổi) không thực sự có nhiều ý nghĩa, khó ngăn chặn tình trạng thao túng – Ảnh minh họa: ITN

Nhìn từ vụ việc đã nêu, một số chuyên gia cho rằng, hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều bất cập, việc sửa đổi pháp luật để phù hợp thực tiễn rất cần thiết, tuy nhiên, khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự Ngân hàng SCB, bởi sở hữu chéo, hay thao túng ngân hàng bản chất rất phức tạp, nếu nhìn trên giấy tờ, nhiều cổ đông sở hữu thấp hơn cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối. Do đó, thay vì siết tỷ lệ sở hữu với hiệu quả còn khá mơ hồ, cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan cổ đông. Có hệ thống giám sát chéo và xử lý nghiêm minh với những trường hợp cố ý làm trái.

Tại báo cáo được công bố mới đây, Viện Nghiên cứu bất động sản Việt Nam (VIRES) cũng nhìn nhận, trên thực tế, tình trạng sở hữu chéo giữa hệ thống tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản với biểu hiện thao túng dòng chảy tín dụng, rót vốn “sân sau”, sử dụng vốn sai mục đích đang có tác động xấu đến chất lượng tín dụng, làm gia tăng rủi ro hệ thống. Tình trạng sở hữu chéo có thể khiến dòng chảy tín dụng bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ, trong khi những doanh nghiệp chân chính muốn vay lại không tiếp cận được.

Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định các tỷ lệ về giới hạn sở hữu cổ phần của các cá nhân, tổ chức và người có liên quan nhằm tăng sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ, còn trên thực tế các cổ đông có thể sử dụng nhiều cách thức, thông qua các mối quan hệ không bị giới hạn theo quy định để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần thực tế và nắm quyền chi phối tại các tổ chức tín dụng.

Từ đó, VIRES kiến nghị, cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, tuân thủ đúng quy định. Đồng thời cảnh báo sớm về tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro là vấn đề quan trọng.

Đồng quan điểm đã nêu, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, việc khống chế tỷ lệ không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định; tránh trường hợp nhờ đối tác, người quen, đứng tên sở hữu hộ, cổ phần hộ, dù nhóm này không phải là “bên liên quan” theo quy định của pháp luật, nhưng thực tế có quen biết, cùng nhau nắm cổ phần chi phối.

Để đảm bảo tính khả thi cho chính sách, một số ý kiến đề xuất, cần thiết lập một khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính để làm rõ cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu thực và trách nhiệm giải trình. Đồng thời cần giảm bớt sở hữu của Nhà nước tại các ngân hàng thương mại và tách rời chức năng ngân hàng thương mại và các công ty đầu tư.

Được biết, so với Dự thảo Luật (sửa đổi) trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, nội dung Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 đã có nhiều tiếp thu, chỉnh lý tại 15 Chương và 203 Điều (tăng 2 Chương và 8 Điều, sửa đổi, chỉnh lý 158 Điều so với Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5). Tuy nhiên, với vai trò rất quan trọng đối với nền tài chính quốc gia, khi ban hành nếu có bất cập sẽ gây nhiều tác động, nhất là đối với an ninh, an toàn hệ thống ngân hàng và hoạt động kinh tế – xã hội, Quốc hội đã xem xét, chưa thông qua Dự thảo Luật này tại kỳ họp thứ 6 mà sẽ xem xét, thông qua tại kỳ họp sau.

BÀI LIÊN QUAN