Bài 1: Một số vấn đề về kiểm soát tài sản, thu nhập phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay

Việc kiểm soát tài sản và thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn là một vấn đề nhạy cảm và khó khăn, liên quan đến quyền công dân và quyền sở hữu cá nhân theo quy định của Hiến pháp.

Việc kiểm soát tài sản và thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn là một vấn đề nhạy cảm và khó khăn, liên quan đến quyền công dân và quyền sở hữu cá nhân theo quy định của Hiến pháp. Để thực hiện hiệu quả cơ chế này, cần thiết phải có các công cụ pháp lý mạnh mẽ, đảm bảo không có ngoại lệ nào cho bất kỳ ai, miễn là họ đáp ứng đủ điều kiện pháp lý.

Để kiểm soát đầy đủ tài sản và thu nhập của những người này, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy định, tập trung vào thể chế kiểm soát tài sản, thu nhập (KSTS, TN) và giải quyết các vấn đề nhạy cảm. Quá trình này tác động trực tiếp đến quyền riêng tư và quyền sở hữu của người bị kiểm soát. Hơn nữa, do đặc thù của đối tượng, việc đấu tranh trở nên phức tạp hơn. Nếu không có khung pháp lý rõ ràng, sẽ khó đạt được hiệu quả trong hoạt động kiểm soát, đồng thời có thể xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người bị kiểm soát.

xac-minh-tai-san-thu-nhap-1041-1726450921.jpg
Ảnh minh họa.

Theo đường lối lãnh đạo của Đảng, Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo trong công tác phòng chống tham nhũng và lãng phí, nêu rõ rằng trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những bước tiến nhất định trong cuộc chiến chống tham nhũng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và hiệu quả chưa cao. Tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều lĩnh vực, làm giảm lòng tin của nhân dân.

Nghị quyết số 04-NQ/TW (30/10/2016) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiếp tục yêu cầu tăng cường chỉnh đốn Đảng, xem tham nhũng và lãng phí như một vấn đề quốc gia nghiêm trọng. Nghị quyết chỉ ra rằng công tác chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu và việc kê khai tài sản còn mang tính hình thức. Biểu hiện suy thoái đạo đức trong kê khai tài sản, thu nhập là phổ biến.

Để cải thiện tình hình này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã yêu cầu thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản và xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ. Cơ quan đề xuất bổ nhiệm cán bộ cần xác minh tính trung thực trong kê khai tài sản trước khi quyết định.

Việc thể chế hóa chính sách của Đảng nhằm góp phần chống tham nhũng, bao gồm các biện pháp KSTS, TN của người có chức vụ, quyền hạn, đã tạo thêm sức mạnh cho các quy định pháp luật hiện hành. Hệ thống văn bản pháp luật về phòng chống tham nhũng đã được cải tiến kể từ Pháp lệnh Chống tham nhũng 1998, quy định rõ về đối tượng kê khai tài sản.

Năm 2005, Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) đầu tiên đã được ban hành, bao gồm các quy định về kê khai tài sản, thu nhập của những người có chức vụ. Luật đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2007 và 2012. Để hướng dẫn thực hiện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2013/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập.

Luật PCTN 2018 thay thế Luật 2005, đánh dấu sự phát triển trong hệ thống pháp luật về chống tham nhũng. Ngày 30/10/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2020/NĐ-CP về KSTS, TN của người có chức vụ, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công tác này.

Nhiều cơ quan đã chuẩn bị thực hiện Nghị định 130/2020/NĐ-CP, tập trung vào tuyên truyền và tổ chức thực hiện. Điều này giúp nâng cao nhận thức về quy định KSTS, TN đến với những người thuộc diện kê khai. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng gặp phải nhiều vấn đề cần được làm rõ và hướng dẫn cụ thể hơn.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến công tác phòng chống tham nhũng. Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra nhiều quyết sách đúng đắn với mục tiêu đấu tranh chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã đề ra nhiều nhóm giải pháp, trong đó KSTS, TN được coi là một giải pháp hiệu quả.

KSTS, TN có vai trò kiểm soát động cơ tham nhũng của những người có chức vụ. Hệ thống này giúp phát hiện vi phạm trong kê khai tài sản. Các quốc gia trên thế giới sử dụng KSTS, TN như một công cụ hiệu quả để ngăn chặn tham nhũng, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi đất nước.

Luật PCTN 2018 đáp ứng nhu cầu hiện tại và đảm bảo tính đồng bộ với các luật khác trong hệ thống pháp luật. Luật này mở rộng đối tượng điều chỉnh, cải cách mô hình cơ quan phòng chống tham nhũng và quy định về kiểm soát xung đột lợi ích, tài sản cá nhân.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật PCTN 2018 vẫn gặp nhiều rào cản do khung pháp lý chưa cụ thể. Một số cá nhân còn e ngại khi thực hiện nghĩa vụ kê khai, dẫn đến thiếu sót trong công tác truyền thông và giải thích pháp luật.

Trước những khó khăn trong công tác phòng chống tham nhũng, cần thực hiện những giải pháp đồng bộ. Việc hoàn thiện hệ thống thể chế là cần thiết để kiểm soát tốt tài sản và thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Việc xây dựng quy định về KSTS, TN cần chú ý đến đối tượng, phạm vi, biện pháp và xử lý vi phạm để đạt hiệu quả cao trong công tác phòng chống tham nhũng.

Thực trạng các quy định pháp luật về KSTS, TN hiện nay

Tình trạng thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật:

Sau 10 năm áp dụng Luật PCTN 2005, các quy định liên quan đến PCTN và kê khai tài sản, thu nhập là cần thiết và khả thi. Nhiều văn bản pháp luật đã được điều chỉnh và bổ sung để đáp ứng tốt hơn yêu cầu trong công tác PCTN, chẳng hạn như: đối tượng kê khai, tài sản và thu nhập phải kê khai, quy trình thực hiện kê khai và quản lý bản kê khai. Những quy định này đã tạo cơ chế kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập còn yếu kém; gặp khó khăn trong việc giải trình, xác minh tài sản, thu nhập; thiếu quy định xử lý tài sản, thu nhập không hợp lý. Điều này cho thấy vẫn còn nhiều nhược điểm trong quy định kê khai tài sản và thu nhập.

Về kê khai tài sản, trong 10 năm thực hiện Luật PCTN đã đạt được những kết quả nhất định [tỷ lệ kê khai đúng hạn đạt 99,5%, tỷ lệ công khai đạt 98,3%. Trong 10 năm đã xác minh 4.859 trường hợp và xử lý 17 người kê khai không trung thực. Ngoài ra, có 70 người khác bị xử lý do vi phạm quy định về kê khai]. Kết quả trên chỉ ra những ưu điểm của việc kê khai tài sản như: (i) hầu hết các đối tượng đã thực hiện kê khai tài sản theo quy định; (ii) bước đầu hình thành cơ sở dữ liệu để xác minh tài sản, thu nhập cá nhân; (iii) thiết lập cơ sở pháp lý cho kê khai và công khai tài sản; (iv) yêu cầu công khai tài sản đã ảnh hưởng đến nhận thức về tham nhũng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác minh bạch tài sản và kê khai vẫn còn tồn tại những hạn chế, như: (i) mặc dù mọi người đều kê khai nhưng phạm vi rất hẹp; (ii) việc xác minh tài sản thực tế còn thiếu sót; (iii) công tác quản lý và theo dõi kê khai chưa có hệ thống; (iv) việc hướng dẫn và kiểm tra thực hiện quy định chưa quyết liệt; (v) một số đơn vị chưa hiểu rõ quy trình kê khai và gặp khó khăn khi xác minh tài sản của cán bộ nghỉ hưu; (vi) việc thu hồi tài sản tham nhũng thông qua kê khai gặp khó khăn.

Thực trạng quy định về KSTS, TN

Về đối tượng của KSTS, TN

Luật PCTN quy định tài sản và thu nhập phải kê khai bao gồm quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền; kim khí quý, đá quý, tiền và tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; tài sản ở nước ngoài; tổng thu nhập giữa hai lần kê khai. Quy định này khá chung chung và bỏ sót tài sản hình thành trong tương lai, vì chỉ đề cập đến tài sản đã hình thành.

Phạm vi KSTS, TN

Hiện nay, Luật PCTN phân loại đối tượng KSTS, TN thành hai nhóm chính: cán bộ, công chức và người thân. Tuy nhiên, cách phân loại này còn thiếu sót, có thể tạo lỗ hổng trong công tác KSTS, TN.

Biện pháp KSTS, TN

Công khai bản kê khai tài sản thường mang tính hình thức, dẫn đến việc thực hiện không đầy đủ. Thời gian công khai thường ngắn và địa điểm khó tiếp cận.

Lựa chọn đối tượng xác minh tài sản dựa trên các căn cứ nhưng vẫn chưa có quy trình rõ ràng cho việc lựa chọn ngẫu nhiên.

Xử lý vi phạm quy định KSTS, TN

Luật PCTN 2018 đã quy định trách nhiệm pháp lý với ba nhóm đối tượng cụ thể, nhưng việc xử lý tài sản tăng thêm mà không giải trình hợp lý vẫn còn bất cập.

Kiện toàn thể chế tổ chức KSTS, TN

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy KSTS, TN cần được quy định rõ ràng trong pháp luật để bảo vệ quyền riêng tư. Ở Việt Nam, Luật PCTN 2018 đã chỉ định Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra thực hiện KSTS, TN nhằm nâng cao tính trách nhiệm.

Một số vấn đề về KSTS, TN theo Luật PCTN 2018: Quy định cơ bản về KSTS, TN. Việc kiểm soát thu nhập đã được nhắc đến từ Pháp lệnh Chống tham nhũng 1998. Luật PCTN 2018 đã phát triển chế định KSTS, TN, tập trung vào tính xác thực trong kê khai tài sản. Luật gồm 10 chương và 96 điều, quy định chi tiết KSTS, TN cho người có chức vụ tại Mục 6 Chương II.

Về cơ quan KSTS, TN: Luật đã xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm KSTS, TN, tạo ra đầu mối rõ ràng cho công tác này.

Nghĩa vụ kê khai tài sản: Người có nghĩa vụ kê khai phải thực hiện kê khai trung thực về tài sản, thu nhập. Đối tượng có nghĩa vụ kê khai mở rộng đến tất cả cán bộ, công chức, sĩ quan quân đội và công an. Tài sản và thu nhập phải kê khai được quy định chi tiết hơn, bao gồm cả công trình xây dựng. Phương thức kê khai cũng đã được điều chỉnh để phù hợp với từng đối tượng, giảm bớt thủ tục hành chính. Việc công khai bản kê khai tài sản được quy định rõ, đảm bảo minh bạch hơn. Xác minh tài sản có thêm căn cứ mới, nhằm tăng cường ý thức tuân thủ. Xử lý hành vi kê khai không trung thực được quy định rõ ràng hơn với các hình thức xử lý nghiêm khắc.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về KSTS, TN được xây dựng để quản lý thông tin hiệu quả hơn.

Hạn chế, bất cập của pháp luật PCTN về KSTS, TN: Mặc dù Luật PCTN 2018 đã có nhiều cải tiến, nhưng vẫn còn những hạn chế, như việc kiểm soát tính trung thực trong kê khai tài sản, không đề cập đầy đủ đến tài sản hình thành trong tương lai, gặp khó khăn trong thu hồi tài sản tham nhũng và công khai bản kê khai tài sản chưa thực sự hiệu quả. Cần có các giải pháp đồng bộ hơn để kiểm soát chặt chẽ tài sản và thu nhập của những đối tượng có nghĩa vụ kê khai, bao gồm cải cách chính sách tiền lương và thanh toán không dùng tiền mặt.