#kỷ nguyên mới

Nguồn tài chính cho doanh nghiệp phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam vẫn là thách thức lớn

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới như EU, Trung Quốc và cả các quốc gia ASEAN bởi những lợi ích về cả kinh tế và môi trường. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng phát triển của mô hình này. Tuy nhiên, nguồn tài chính cho doanh nghiệp để phát triển KTTH tại Việt Nam vẫn là một thách thức lớn cần sự đồng hành, nỗ lực của Chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp.

Khuyến khích doanh nghiệp phát triển KTTH

Chuyển đổi sang KTTH hiện đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới như EU, Trung Quốc và cả các quốc gia ASEAN bởi chính những lợi ích về cả kinh tế và môi trường.

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Võ Tuấn Nhân cho biết, tại Việt Nam, KTTH đã sớm nhận được quan tâm của Đảng, Nhà nước với các định hướng, chỉ đạo theo hướng toàn diện, thống nhất trong Văn kiện của Đảng hoặc định hướng Chiến lược, đề án của Chính phủ.

Tại Điều 142 của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) có quy định riêng về KTTH. Theo đó, "KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường".

Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT đã cụ thể hóa tiêu chí, lộ trình và cơ chế khuyến khích áp dụng KTTH.

Nghị định đã đưa ra các biện pháp đầu tư của Nhà nước cho phát triển KTTH như "đầu tư vào nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thiết bị, đào tạo nhân lực để thực hiện KTTH; cung cấp nền tảng chia sẻ thông tin, dữ liệu về KTTH".

Ngoài ra, các biện pháp khuyến khích khác được đưa ra như: Khuyến khích các hoạt động phát triển KTTH như nghiên cứu, phát triển công nghệ, giải pháp kỹ thuật…; Khuyến khích phát triển các mô hình liên kết, chia sẻ việc sử dụng tuần hoàn sản phẩm và chất thải; thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên minh tái chế, các mô hình liên kết vùng, liên kết đô thị với nông thôn và các mô hình khác theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đạt được tiêu chí của KTTH…

Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh, để thực hiện được KTTH đòi hỏi một tiến trình dài hạn với sự quyết tâm và nỗ lực của toàn hệ thống để từng bước hình thành và vận hành các hoạt động sản xuất, tiêu dùng trong nền kinh tế; đổi mới, sáng tạo trên cơ sở áp dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển của công nghệ để thiết lập một chuỗi giá trị gia tăng mới, tạo lập các mô hình kinh doanh tuần hoàn mới, và các động lực giá trị mới cho nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc, giải pháp của KTTH với tầm nhìn chia sẻ, học hỏi lẫn nhau.

pasted-image-0-1662606997.png
 

Dần hình thành các mô hình kinh doanh tuần hoàn tại doanh nghiệp

Trình bày về việc áp dụng kinh tế tuần hoàn ở cấp độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, những mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn cả ở cấp độ chuỗi, nhóm và ở các doanh nghiệp riêng lẻ đang dần hình thành. Các doanh nghiệp Việt Nam ở các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, dựa trên các đặc điểm ngành đã thiết kế các quy trình tái chế, tái sử dụng, mô hình KDTH hoặc các hoạt động sản xuất bước đầu tiếp cận mô hình KDTH.

Giữa năm 2019, chín công ty hàng đầu đã bắt tay thành lập Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (Pro Vietnam) với cam kết tái chế toàn bộ bao bì tại Việt Nam vào năm 2030.

Tuy nhiên, mức độ áp dụng KDTH tại các doanh nghiệp là tương đối thấp, cả ở góc độ đổi mới mô hình kinh doanh và áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn.

Chia sẻ tại hội thảo, ông Nguyễn Quốc Khánh, Giám đốc Điều hành Nghiên cứu Phát triển Vinamilk cho hay, KTTH và chuỗi giá trị của Vinamilk bắt đầu từ nguồn lực là đầu tư vào công nghệ thân thiện môi trường, giảm thiểu lượng nguyên nhiên vật liệu sử dụng,… đến nghiên cứu và phát triển (đánh giá vòng đời sản phẩm, đánh giá dinh dưỡng sản phẩm từ khâu nghiên cứu phát triển, tiếp cận 3R gồm: Giảm thiểu (Reduce), tái sử dụng (Reuse), tái chế (Recycle)), cho đến chăn nuôi bền vững và sản xuất sạch.

Trong quá trình thực hiện, Vinamilk đã có nhiều thuận lợi như: Có chủ trương của Chính phủ về ứng dụng KTTH, các cấp lãnh đạo công ty quyết tâm, có tiềm lực thực hiện, nhận nhiều hỗ trợ từ các đối tác, tổ chức, ban ngành.

Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số khó khăn như chi phí cao, người tiêu dùng chưa thực sự đồng ý chi trả thêm chi phí phát sinh nếu có, chưa đồng bộ giữa các khâu dẫn đến chưa hoàn chỉnh quy trình tối ưu để ứng dụng kinh tế tuần hoàn. Do đó, đại diện của Vinamilk kiến nghị cần các cơ quan chức năng đẩy mạnh nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn, đặc biệt là giáo dục trẻ em để hình thành nhận thức từ sớm; Chính phủ ban hành các chính sách xanh kịp thời, các quy định cụ thể thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn; tạo quy định chung để các công ty phải thực hiện theo một cách công bằng, nhất quán.

Chia sẻ về mô hình kinh tế tuần hoàn của Tân Hiệp Phát, bà Trần Uyên Phương, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Tân Hiệp Phát cho biết, Tập đoàn đã đầu tư chuỗi công nghệ từ Washing - Extruder - Injection Molding để tái chế tuần hoàn nhựa PE,PP sản xuất pallet, thùng chứa rác,...đồng thời triển khai hệ thống quản trị số hóa tự động từ sản xuất tới cung ứng.

Ngoài ra, việc áp dụng mô hình 3R đã giúp Tân Hiệp Phát cắt giảm hơn 70.000 tấn nhựa trong gần 10 năm (2013-2022), từ đó đặt mục tiêu giảm hơn 112.000 tấn nhựa vào năm 2027, tiếp tục mở rộng mô hình kinh tế tuần hoàn, chung tay cùng các doanh nghiệp tái chế nhựa.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn gặp nhiều thách thức như: thói quen tiêu dùng, nhận thức về KTTH; Khung pháp luật và chính sách chưa hoàn thiện; Liên kết, quy hoạch chuỗi giá trị phục vụ cho ngành công nghiệp tái phù hợp với quy mô thu gom, đặc thù địa lý và điều kiện kinh tế xã hội từng khu vực để triển khai tái chế hiệu quả về kinh tế.

Nguồn lực tài chính là một thách thức lớn

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhận định, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển của kinh tế tuần hoàn đồng thời là đối tượng thụ hưởng lợi ích thiết thực từ các mô hình kinh tế sáng tạo và văn minh này. Tuy nhiên, nguồn tài chính cho doanh nghiệp để phát triển kinh tế tuần hoàn vẫn là thách thức lớn cần sự đồng hành, nỗ lực của Chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp với các giải pháp thiết thực hiệu quả.

Việt Nam đang bắt đầu bước vào kỷ nguyên kinh tế tuần hoàn với Quyết định 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 về "Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam" là bước ngoặt quan trọng góp phần cụ thể hóa mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng về "0" vào năm 2050; đẩy mạnh ứng dụng mô hình KTTH thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế.

Để hỗ trợ thúc đẩy kinh tế xanh, KTTH, các nguồn lực tài chính đã và đang được huy động một cách tích cực, hiệu quả cho các doanh nghiệp và các hoạt động sản xuất, kinh doanh "xanh" (chủ yếu hiện nay vẫn là các nguồn lực cho tài chính "xanh").

Tuy nhiên, quy mô trái phiếu xanh Việt Nam còn nhỏ (chỉ chiếm 2,2% tổng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2021); chưa đáp ứng yêu cầu về ESG; chưa tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về phát hành trái phiếu xanh.

Dư nợ tín dụng xanh với các dự án xanh 451.000 tỷ đồng (chiếm 4,2% tổng dư nợ), gấp gần 6 lần mức 70,8 nghìn tỷ đồng năm 2015. Tính đến hết quý I/2022, tổng dư nợ đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội là 1,31 triệu tỷ đồng, chiếm 14,5% tổng dư nợ nền kinh tế.

Mặc dù dư nợ tín dụng xanh đã tăng trưởng tích cực trong giai đoạn 2016-2021, song quy mô dư nợ tín dụng xanh còn khá nhỏ so với tổng dư nợ nền kinh tế, hơn nữa chỉ tập trung vào một số ngân hàng thương mại lớn (nhiều ngân hàng thương mại chưa có hướng dẫn, vận hành cơ chế tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế); nguồn tài chính cho tín dụng xanh còn phụ thuộc vào các dự án, chương trình có tài trợ quốc tế (thường quy mô nhỏ và điều kiện khắt khe).

Còn nhiều rào cản trong phát triển KTTH

TS Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập tạp chí Nhà đầu tư cho biết, phát triển bền vững nói chung và KTTH nói riêng đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia và phản ánh của các doanh nghiệp, quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn nói chung và mô hình kinh doanh tuần hoàn nói riêng đang gặp phải không ít khó khăn, rào cản.

Nổi lên là nhận thức về KTTH còn hạn chế, thiếu các chính sách cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp tham gia phát triển KTTH và áp dụng mô hình KDTH, nhất là chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng, công nghệ và đào tạo; công tác thông tin, truyền thông về KTTH và KDTH còn hạn chế; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hoạch định chính sách với các doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu Khoa học công nghệ...

Đồng quan điểm với ý kiến trên, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, các quy định về KTTH nói chung và KDTH nói riêng mặc dù đã có nhưng phần lớn vẫn đang nằm ở dạng chính sách, chưa được cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, và vì vậy gần như rất ít được triển khai trong thực tế.

Điều này dẫn đến các hoạt động hỗ trợ chính thức nhằm phát triển đối với các mô hình KDTH gần như chưa được thực hiện. Thiếu các quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh doanh theo hướng tuần hoàn, ví dụ các hỗ trợ về tài chính, công nghệ, đào tạo, tư vấn, thị trường cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm áp dụng các mô hình, quy trình theo hướng KDTH. Mô hình KDTH đã xuất hiện ở một số doanh nghiệp trong thời gian gần đây, nhưng mức độ áp dụng còn thấp.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân nhận định, đối với một quốc gia như Việt Nam để thực hiện KTTH chứa đựng cả những cơ hội và rào cản. Trong đó, có cần phải có những nỗ lực từ các cơ quan Chính phủ, tổ chức, cá nhân ở trong nước nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật theo hướng đồng bộ.

Cùng với đó, cần có sự đồng thuận chung của cộng đồng quốc tế trong việc gỡ bỏ các rào cản mang tính toàn cầu (ví dụ, vấn đề thương mại đối với các hàng hóa, vấn đề tiêu chuẩn, quy chuẩn sản phẩm, hàng hóa, vấn đề tài chính).

Chính vì vậy, trong ngắn hạn Việt Nam cần tập trung đưa các quy định của Luật BVMT vào cuộc sống, sớm xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về thực hiện KTTH để lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên, xây dựng các định hướng mục tiêu, chỉ tiêu, giao trách nhiệm cho các Bộ, ngành và địa phương trong cụ thể hóa chủ trương này.

Cùng với đó, trong dài hạn, hệ thống pháp luật có liên quan cần lồng ghép tư duy của KTTH để hoàn thiện các quy định khác có liên quan như pháp luật về đầu tư công để hướng đến thúc đẩy mua sắm xanh, pháp luật về thuế, phí BVMT để hướng đến điều chỉnh hành vi của người sản xuất, tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn để giao trách nhiệm rõ ràng cho các Bộ, ngành trong việc phát triển các tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với nguyên liệu, vật liệu thứ cấp; pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng để hướng đến đảm bảo "quyền được sửa chữa, cập nhật các sản phẩm, kéo dài vòng đời sản phẩm"…

Đặc biệt, cần phát huy vai trò kiến tạo của Chính phủ trong điều hành, hoạch định chính sách nhằm kích thích ngày càng nhiều các tổ chức, cá nhân đổi mới, sáng tạo, áp dụng các giải pháp KTTH vào trong quá trình thiết kế, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và quản lý chất thải để tạo ra những vòng lặp tuần hoàn, kết nối một cách hệ thống để tạo dựng một xã hội tuần hoàn.