Sáng 5/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, thừa ủy quyền của Chính phủ trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Kiểm soát hoạt động tín dụng, chống thao túng, lợi ích nhóm, sở hữu chéo
Thống đốc cho biết, việc xây dựng Luật nhằm tiếp tục tạo hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sau khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực sau ngày 31/12/2023; bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng; tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, có sự tham gia của Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính để quản lý, kiểm soát hoạt động tín dụng, chống thao túng, lợi ích nhóm, sở hữu chéo...
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia và để bảo đảm có cơ chế ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt có nguy cơ ảnh hưởng, đe dọa an toàn hệ thống, dự thảo Luật bổ sung quy định về các biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt.
Cụ thể, Điều 144 dự thảo Luật quy định, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: xếp hạng dưới mức trung bình trở xuống theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; có nguy cơ mất khả năng chi trả, nguy cơ mất khả năng thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; bị rút tiền hàng loạt khi có nhiều người gửi tiền cùng đến rút tiền dẫn đến tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả và không tự khắc phục được theo quy định của Ngân hàng Nhà nước…
Tùy theo thực trạng, tính chất, mức độ rủi ro của tình trạng cần can thiệp sớm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước áp dụng một hoặc một số các biện pháp can thiệp sớm như: hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản; hạn chế hoạt động kinh doanh không hiệu quả, hạn chế các giao dịch lớn, có rủi ro cao; đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác có dấu hiệu vi phạm pháp luật; hạn chế thẩm quyền quyết định trong hoạt động kinh doanh của người quản lý, người điều hành…
Dự thảo Luật cũng kế thừa quy định về áp dụng can thiệp sớm tại Luật hiện hành và có sửa đổi, bổ sung để giải quyết những bất cập thời gian qua; bổ sung thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước tại giai đoạn can thiệp sớm; quy định một số biện pháp hiện nay đang áp dụng tại giai đoạn kiểm soát đặc biệt lên giai đoạn can thiệp sớm cho phép xử lý từ sớm, từ xa khi tình trạng yếu kém của tổ chức tín dụng chưa đến mức nghiêm trọng.
Quy định cụ thể hơn các biện pháp can thiệp khi tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt
Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, việc can thiệp sớm theo quy định của dự thảo Luật thực chất là xử lý tổ chức tín dụng đã lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí đứng trước nguy cơ đổ vỡ.
Theo quy định hiện hành, tùy theo mức độ của từng tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp như khuyến nghị, cảnh báo, giám sát tăng cường, can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt.
Tuy nhiên, hồ sơ dự án Luật chưa đánh giá thực trạng thực hiện giám sát tăng cường, những khó khăn, bất cập khi thực hiện biện pháp này để đề xuất đưa vào dự thảo Luật; cũng chưa đánh giá, làm rõ được sự tương quan giữa các biện pháp từ giám sát tăng cường đến can thiệp sớm và kiểm soát đặc biệt dẫn đến không làm rõ được bản chất của việc “can thiệp sớm” để có những biện pháp, công cụ tương ứng phù hợp.
Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát lại toàn bộ các quy định tại Chương về can thiệp sớm theo hướng hạn chế tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc phải có điều kiện rất cụ thể, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ vay tiền từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tổ chức tín dụng với lãi suất 0% và việc cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm.
Đối với các trường hợp cảnh báo sớm, cần rà soát, luật hóa những trường hợp thực hiện giám sát tăng cường mà đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả trong thực tiễn để thể hiện đúng bản chất của việc “can thiệp sớm”, không chuyển các biện pháp xử lý trong trường hợp kiểm soát đặc biệt thành trường hợp can thiệp sớm.
Bên cạnh đó, cần tăng trách nhiệm của cổ đông/thành viên góp vốn, người quản lý, giám sát tổ chức tín dụng để xảy ra tình trạng tổ chức tín dụng yếu kém, đồng thời quy định chế tài đủ mạnh mẽ, quyết liệt đối với các đối tượng nêu trên để tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, quy định về xử lý tổn thất, thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động; phân định, quy định phù hợp biện pháp xử lý tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt…
Theo ông Vũ Hồng Thanh, các biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt là quy định mới so với Luật hiện hành. Quy định này là cần thiết và tạo tính chủ động để bảo đảm an toàn hệ thống, nhất là trong bối cảnh xảy ra một số trường hợp ngân hàng bị rút tiền hàng loạt như thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, các biện pháp nêu tại Điều 148 của dự thảo Luật chỉ bao gồm các biện pháp hỗ trợ từ “bên ngoài” (chủ yếu từ Ngân hàng Nhà nước) mà chưa có những biện pháp “tự thân” của tổ chức tín dụng để nhanh chóng khắc phục tình trạng rút tiền hàng loạt.
Có ý kiến đề nghị làm rõ mối liên hệ, sự tương quan giữa biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt (Điều 148) với các biện pháp can thiệp sớm (Điều 145) vì trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt là một trong các trường hợp áp dụng biện pháp can thiệp sớm nhưng hiện đang quy định 2 biện pháp riêng.
Ủy ban Kinh tế thấy rằng, sự cố rút tiền hàng loạt đòi hỏi phải xử lý khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, khác với các trường hợp tổ chức tín dụng yếu kém qua theo dõi phải được can thiệp. Do vậy, đề nghị rà soát lại các quy định có liên quan đến các biện pháp can thiệp sớm và biện pháp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt; nghiên cứu quy định cụ thể hơn các biện pháp can thiệp trong trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt, bao gồm các biện pháp từ chính tổ chức tín dụng và từ phía Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước; bảo đảm rõ vai trò, trách nhiệm của các bên cũng như các biện pháp hiệu quả, phù hợp.